Trang

Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Cuộc đảo chánh Nhật - Pháp ngày 9/3/1945. Phần 3

7. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ
Trong khi tất cả mọi chuyện đang dồn dập xảy ra thì viên Toàn quyền Decoux ở đâu? Ngày 9 tháng 3, Toàn quyền Decoux không có mặt ở Hà Nội. Ông ta đã vào Sài Gòn từ ngày 24 tháng 2. Tuy ý thức được tình hình rất nghiêm trọng, nhưng ông cho rằng vẫn còn có thể lèo lái được trong một thế thăng bằng rất chênh vênh. Để chờ đợi...
Ở Sài Gòn vào đầu buổi chiều ngày 9, không có một dấu hiệu đặc biệt nào chứng tỏ có gì đáng lo ngại, ngoài những bức điện từ ngoài Bắc đánh vào báo tin những cuộc hành quân của Nhật và sáng nay có tin của một chỉ điểm từ Thủ Dầu Một báo một cuộc tiến công sắp xảy ra. Không khí chung quanh lại dường như dễ thở, cởi mở hơn, vì vừa qua một cuộc đối đầu ngoại giao rất gay go, chống những yêu sách quá quắt của quân đội Nhật. Chúng đòi đổi một số rất lớn đồng yên lấy đồng bạc Đông Dương để chi phí cho quân đội. Chúng đòi phải nộp cho chúng thêm gạo để nuôi quân, chúng đòi đưa thêm quân từ Quảng Tây vào Bắc Kỳ trong khi ở đây tình hình lương thực đang cực kỳ nghiêm trọng, nạn đói đang đe dọa vì bị thiên tai mất mùa và đường xá lại bị không quân Mỹ ném bom tàn phá. Chúng cũng đòi phải nộp cho chúng những phi công Mỹ bị chúng bắn rơi trong trận ném bom ngày 12 tháng Giêng, hiện bị chính quyền Pháp giam giữ...
Không khí của những cuộc họp hết sức căng thẳng. Quân Nhật chỉ trích nặng nề về thái độ lừng chừng của Decoux và chính quyền Pháp, tung ra những lời lẽ ngạo mạn, dọa nạt thô lỗ và ý định thực hiện ngay những sự trừng phạt, nếu không chấp nhận đầy đủ các yêu sách của chúng. Nhưng Decoux vẫn một mực từ chối, và cuối cùng cắt giảm được một phần quan trọng các yêu sách này, sắp sửa đi đến ký kết một thỏa ước. Từ năm năm nay, quan hệ Pháp - Nhật cũng đã từng trải qua những giai đoạn gay go quyết liệt như vậy. Đã nhiều lần, người ta tưởng không tránh khỏi một đòn bạo lực của Nhật, nhưng rồi cuối cùng, Nhật vẫn không thực hiện những lời dọa nạt của chúng, nên lần này chắc cũng lại như vậy thôi.
Vào buổi chiều ngày 9 tháng 3, đại sứ Nhật Matsumoto cùng với tổng lãnh sự Kohno và một đoàn nhân viên ngoại giao đến Phủ toàn quyền ở Sài Gòn để ký kết một bảng thỏa ước về cung cấp gạo cho quân đội Nhật năm 1945, theo những hiệp ước của chính phủ Vichy ký với Tokyo ngày 6 tháng 5 năm 1941.
Theo những chứng nhân có mặt hôm đó cho biết thì phái đoàn Nhật đến với một thái độ rất tươi cười niềm nở, nói những lời chào hỏi chúc mừng hoa mỹ tốt đẹp. Phía Pháp nhận xét thấy họ chỉ có một điều bất thường là họ muốn chùng chình chưa muốn ký ngay, kéo dài thời gian trong những cuộc hội ý vô tận giữa họ với nhau bằng tiếng Nhật, và luôn luôn liếc nhìn đồng hồ, rõ ràng là như chờ đợi một cái gì vậy.
Cuộc họp bắt đầu lúc 16 giờ, và đúng 18 giờ 30, thì đại sứ Matsumoto xin có một cuộc hội kiến với Toàn quyền Decoux vào lúc 19 giờ, để chuyển giao một thông điệp quan trọng. Tuy rất ngạc nhiên về điều bất thường này nhưng Decoux cũng nhận lời.
Đúng 19 giờ, đại sứ Nhật Matsumoto, đứng trước đoàn ngoại giao Nhật trịnh trọng giao cho Toàn quyền Decoux một bức tối hậu thư của chính phủ Nhật, với thời gian phải trả lời là 2 tiếng đồng hồ. Nội dung của bức tối hậu thư đại để như sau: Căn cứ vào diễn biến của tình hình hiện nay, chính phủ Nhật thấy cần thiết phải có những sự phòng ngừa nào đó ở Đông Dương. Vì vậy, ngoài những yêu cầu khác, chính phủ Nhật Bản đòi hỏi quân đội Pháp phải chuyển đặt dưới quyền chỉ huy của Nhật Bản cùng với hải quân, cảnh sát và toàn bộ hệ thống hành chánh. Đồng thời các cơ sở ngân hàng tín dụng Pháp cũng phải phụ thuộc vào sự kiểm soát của Nhật. Pháp sẽ phải nộp cho Nhật một số thế chấp tài sản, và một số con tin để bảo đảm sự thực hiện trung thực các điều khoản nêu ra. Tất cả mọi biện pháp quân sự, mọi bố trí báo động và phòng thủ về phía Pháp trước khi hết hạn trả lời, sẽ lập tức phát động các hoạt động của quân đội Nhật đã ở trong tư thế sẵn sàng.
Decoux, hết sức xúc động tuyên bố ngay đây là những điều kiện nhục nhã không thể nào chấp nhận được, hơn nữa chúng vi phạm vào sự cam kết long trọng của Nhật Hoàng tôn trọng chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Matsumoto đáp lại là ông ta không có thẩm quyền được tranh luận về những điều kiện trong sứ mệnh của mình và xác định lại là tối hậu thư sẽ hết hạn vào đúng 21 giờ. Thêm nữa ông ta tuyên bố quyết định là sẽ ở lại tại chỗ để chờ trả lời. Sau khi thương lượng, vào khoảng 19 giờ 45, ông ta cũng đồng ý rút ra khỏi Phủ toàn quyền với đoàn tùy tùng, hẹn sẽ nhận bản phúc đáp tại ban tham mưu của quân đội Nhật Bản ở đường d’Arras (bây giờ là đường Cống Quỳnh). Một sĩ quan Nhật sẽ ở lại để đưa đường và bảo vệ cho sĩ quan Pháp mang thư trả lời.
Vào hồi 19 giờ 15, tất cả các quan chức cao cấp Pháp dân sự và quân sự được triệu tập khẩn cấp đến để bàn bạc. Ý kiến chung của mọi người đều thống nhất không thể chấp nhận được các yêu sách của bức tối hậu thư. Một bản phúc đáp được thảo ra, đại ý nói những điều kiện đề ra trong tối hậu thư của chính phủ Nhật là không thể chấp nhận được, và xin một thời hạn nữa để liên lạc với các thành viên của chính phủ ở Hà Nội, sau đó sẽ có những điều kiện đáp ứng. Decoux cũng cam kết: “Quân đội Pháp sẽ không có bất cứ một hành động chiến tranh nào, trừ phi những lực lượng Nhật Bản bắt đầu trước những hành động thù địch”.
Cuộc bàn bạc và thảo thư phúc đáp mất khá nhiều thời gian, nên mãi đến 20 giờ 50, thì đại úy hải quân Robin và trung úy d’Aiguillon mới cầm thư lên đường. Nhưng viên sĩ quan Nhật đưa đường đã biến mất. Hai viên sĩ quan Pháp không biết ban tham mưu Nhật chính xác ở chỗ nào, không tìm được, đành phải đến Ủy ban liên lạc Pháp - Nhật ở phố Richaud (bây giờ là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tại đây, gọi cửa mãi mới có một viên phiên dịch Nhật, tay lăm lăm cầm khẩu tiểu liên ra mở cửa. Sau khi trình bày sự thể, viên này cho hai sĩ quan Pháp được liên hệ bằng điện thoại với Matsuoko, và ông này nói sẽ cho người đến dẫn đi. Lúc đó là 21 giờ 5 phút. Mấy phút sau có một chiếc xe hơi đến, trong đó có một sĩ quan Nhật, trưng một lá cờ Nhật rất to. Xe của hai sĩ quan Pháp đi theo sau xe này. Họ thấy trên đường Verdun (bây giờ là đường Cách mạng tháng 8) không biết bao nhiêu là xe cam nhông chở đầy lính Nhật, và hàng đoàn xe tăng đỗ, nhưng để nổ máy. Đi đến phố d’Arras, hai sĩ quan được Matsumoto tiếp trong một văn phòng rõ ràng là mới được bố trí vội vàng. Một cửa mở rộng cho thấy ở phòng bên có hai sĩ quan cấp tướng đang nghiên cứu một bản đồ Sài Gòn.
Đại úy Robin trao lá thư phúc đáp. Matsumoto sau khi đọc lướt qua nói bằng một giọng cáu kỉnh: thế là từ chối phải không? Ông ta sang phòng bên nói vài lời với hai viên sĩ quan cấp tướng. Một trong hai viên này ra đứng ở cửa sổ hét một vài lệnh ngắn gọn. Lập tức các tiếng còi inh ỏi nổi lên, các động cơ xe nổ ầm ầm. Quân đội Nhật nườm nượp tỏa ra các đường phố Sài Gòn. Đòn bạo lực bắt đầu. Đó là 21 giờ 20 phút.
Trên đường trở về, xe của hai viên sĩ quan Pháp khó khăn lắm mới lách qua được hàng đoàn các xe cam nhông và xe tăng Nhật. An toàn về được đến trước cổng Phủ toàn quyền, họ đã thấy lính Nhật leo qua hàng rào sắt vào trong sân cỏ. Sự chiếm đóng Phủ toàn quyền diễn ra hết sức nhanh chóng, không có đổ máu, không tốn một viên đạn nào. Chỉ mấy phút sau thì toàn bộ bộ chỉ huy tối cao, đầu não quân sự và dân sự đều bị bắt sống hết.
Về quân sự, trong số bị bắt lúc đó có Toàn quyền Decoux, tướng Delsuc, tư lệnh sư đoàn Nam Kỳ - Cao Miên, Đô đốc Berenger, tư lệnh hải quân. Trong số quan chức dân sự có chánh văn phòng Gautier, vợ và cô con gái Simon, 11 tuổi rất xinh đẹp, được Nhật đặc cách cho đeo còng số 8 vì là dân sự.
Sáng hôm sau tướng Kawamura, tham mưu trưởng của quân đội Nhật Bản ở miền Nam Đông Dương vào gặp Decoux. Ông ta tuyên bố rất lấy làm tiếc phải hành động như tối hôm qua, vì những nhu cầu chiến lược, cũng như vì người Nhật thiếu tin tưởng ở sự cộng tác của Pháp ở Đông Dương. Ông ta bảo đảm với Decoux sẽ bảo vệ tính mạng và tài sản của dân chúng. Decoux trả lời ghi nhận lời bảo đảm này, nhưng cực lực phản đối cuộc tấn công không thể chấp nhận được mà nước Nhật sẽ phải chịu trách nhiệm.
Trong cùng ngày, Nhật dùng đài phát thanh của Sài Gòn phát đi những bản tuyên bố đại ý thanh minh cho cuộc tấn công đêm 9 tháng 3, đổ lỗi cho phía Pháp đã tổ chức mạng lưới gián điệp làm việc cho quân Đồng Minh, đã tích trữ súng ống đạn dược đã được thả dù xuống, bố trí quân đội đó tấn công quân Nhật... Và nhất là đã thiếu hẳn tinh thần cộng tác với quân Nhật.
Nhật cũng tuyên bố từ nay chủ quyền Pháp không còn nữa, các dân tộc ở Đông Dương được độc lập, nhưng trước mắt vẫn duy trì toàn bộ hệ thống tổ chức chính trị và hành chính của Pháp để lại trên toàn cõi Đông Dương. Thật ra, ý đồ của Nhật đâu có thể dễ dàng nhả miếng mồi béo bở ở Đông Dương ra như vậy. Chỉ ít ngày sau khi xảy ra cuộc chính biến, viên “Toàn quyền Nhật” Minoda đã nói toạc ý đồ này ra - mà nói bằng tiếng Pháp cho không có nhầm lẫn gì được - trong một cuộc họp với công chức Việt Nam ở Long Xuyên, ngày 30 tháng 3 năm 1945 “Có một sự hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát quân sự của Nhật Bản. Sự độc lập của đế chế Trung Kỳ và Cao Miên đã được tuyên bố. Nam Kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm soát quân sự mà còn dưới cả sự cai trị quân sự của Nhật. Vậy thì không có sự độc lập của Nam Kỳ”. (ll-y-a un grand malentendu au sujet de l’independance de l’Indochine. Celle ei tout entière est so us le contrôle militaire du Japon. L’Independance de l’Einpire d’Annam et celle du Cambodge ont été pro clamées. La Cochinchine, non seulement se trouve sous le contrôle militaire du Japon, mais encore sous l’adminis tration militaire japonaise. Donc, pas d’independance de la Cochinchine...).
Vì vậy, sau này các nhà sử học đã khẳng định Việt Nam lấy lại nước, giành lại độc lập tự do là từ tay nắm giữ của quân Nhật, do chiến đấu chống lại dã tâm cướp nước của Nhật, chứ không phải do Nhật “ban ơn cho”. Đó là một sự thực lịch sử hoàn toàn có căn cứ, được chứng minh bằng bao nhiêu sự kiện tàn bạo do Nhật gây ra trên ba nước Đông Dương. Vả lại, đối với bọn phát xít xâm lược, chẳng làm gì có được thứ “độc lập bánh vẽ” được chúng cho không như vậy.
Cũng trong buổi chiều ngày 9 tháng 3, vào khoảng 18 giờ, viên Thống đốc Nam Kỳ E. Hoeffel cho triệu tập họp các chỉ huy quân sự và một số quan chức dân sự để báo tin, tối hôm đó có thể quân Nhật sẽ tấn công. Mặc dù phần đông các người họp không tin chuyện này có thể xảy ra, nhưng người ta cũng bàn về các biện pháp phòng ngự.
Ở miền Nam Đông Dương lúc đó, lực lượng quân sự gồm có ba đơn vị lớn, trong số này sư đoàn Nam Kỳ - Cao Miên là đơn vị chính thức lớn nhất. Nó được chia thành hai tập đoàn (groupement) là tập đoàn Nam Kỳ - Nam Trung Kỳ, và tập đoàn Cao Miên. Mỗi tập đoàn có những nhiệm vụ khác nhau dưới quyền chỉ huy của tướng Delsuc, đã bị Nhật bắt sống cùng với Decoux tại Phủ toàn quyền. Nói chung quân số không đông, lại phải rải ra trong một địa bàn quá rộng, mà sự thông tin liên lạc lại thiếu thốn. Ngày 19 tháng 11 năm 1944, kế hoạch được đề ra sẽ tập trung một lực lượng mạnh ở Kratié hay ở Buôn Ma Thuột để đối phó với một cuộc tấn công của quân Nhật vào Sài Gòn. Nhưng vào tháng 2 năm 1945, khi thấy quân Nhật đến đóng trên đường Sài Gòn - Kratié, kế hoạch được thay đổi, dự kiến quân đội sẽ rút về tập trung ở Buôn Ma Thuột.
Tại Sài Gòn đêm 9 tháng 3, trong các trại quân chỉ có một số quân nhỏ, đạn dược thiếu thốn, các chỉ huy cấp cao đã bị bắt hết, chỉ còn lại các sĩ quan trực ban. Bị đánh bất ngờ, trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11 (11 RIC) có 200 người với súng trường và vài khẩu súng máy, chỉ cầm cự được đến 5 giờ sáng, trong khi trại La Grandière và đại đội ở Chợ Lớn gục ngã ngay từ lúc 2 giờ đêm.
Ở Vũng Tàu, quân Nhật mai phục ở nhiều địa điểm, vào khoảng 21 giờ xông ra giết các lính gác, bao vây các trại quân và nơi cư trú của các sĩ quan, bắn trọng thương viên đại úy Bélief, rồi xông lên chiếm ngọn tháp hải đăng và từ đó bắn pháo hiệu, mở đầu cuộc tấn công. Trong vài tiếng đồng hồ, cửa bể này đã lọt vào tay quân Nhật.
Ở Thủ Dầu Một, viên thiếu tá Mollard chỉ huy một tiểu đoàn cơ giới, cầm cự được đến 2 giờ rưỡi sáng, cho xung phong phá vòng vây hai lần để cho xe cơ giới hoạt động nhưng đều thất bại với nhiều thương vong. Vào quãng 6 giờ sáng, Mollard cũng hy sinh. Cuộc chiến đấu tiếp tục được hơn một tiếng đồng hồ nữa bằng lựu đạn và lưỡi lê, đến 7 giờ sáng thì kết thúc.
Ở miền Tây, kế hoạch kháng cự vũ trang đã được vạch ra từ trước, gọi là “vùng hành động Legrand” (Zône d’action Legrand) gồm có Cần Thơ, Sài Gòn, Đà Lạt và Cam Ranh do một sĩ quan là đại úy Pawels và một người dân sự là viên tổng công trình sư công chính Nicolai cầm đầu. Nhóm chiến đấu quan trọng nhất của vùng này là nhóm Transbassac do thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Langellie - Bellevue chỉ huy. Ông này về sau bị Nhật bắt được và bị Sở hiến binh Nhật (Kampetai) tra tấn đến chết.
Nhóm Transbassac có khoảng 1.000 người được phân ra như sau:
- Langellie - Bellevue chỉ huy 270 người với 9 sĩ quan.
- Mienville, thuyền trưởng tàu hộ tống La Mame, chỉ huy 250 lính thủy với 9 sĩ quan.
- Jean d’Hers, đại úy xen đầm chỉ huy 570 người, trong số đó có 30 người Pháp dân sự tình nguyện.
Nhóm này đánh du kích và hoạt động phá hoại đã cầm chân được hàng tiểu đoàn tinh nhuệ của Nhật và gây cho chúng nhiều tổn thất, hơn 100 tên tử thương. Ở mũi Cà Mau, Mienville cầm cự được 16 ngày, cuối cùng đã phải cho đánh chìm chiếc tàu hộ tống La Mame. Viên hạ sĩ quan Le Houéron người vùng Bretague của Pháp bị Nhật bắt sống và chặt đầu vào ngày 27 tháng 3 năm 1945. Một nhân vật nữa trong cuộc kháng cự tuyệt vọng này là đại úy xen đầm Jean d’Hers mà cuộc chiến đấu cuối cùng và sự hy sinh anh dũng đã được tường thuật ở trên.
Ở Trung Kỳ thì tương đối ít ác liệt hơn, nhưng cũng không may mắn gì hơn. Về phía Bắc, những toán lính sống sót từ Vinh chạy ra lại bị tiêu diệt mất một số, còn bao nhiêu tẩu tán đi khắp nơi. Căn cứ không quân Đồng Hới cũng chịu chung một số phận như vậy. Ở đây, đại úy Mayraud chỉ huy căn cứ tử vong vì... kiệt sức. Số tàn quân chạy được sang Lào nhập vào khu bưng biền của đại úy Ayrolles.
Ở kinh thành Huế, vào buổi chiều ngày 9, khi nhận được hai bức điện từ Hà Nội đánh vào báo tin tình hình nghiêm trọng, người ta cũng họp bàn các biện pháp đối phó, nhưng lại cứ dùng dằng mãi vì sợ đây là một động thái giả của Nhật nhằm phát hiện những bố trí phòng thủ của quân Pháp. Vào khoảng 17 giờ thì có tin báo hai đại đội Nhật đã rời Quảng Trị và đang tiến về Huế. Mặt khác lại có tin báo, đội quân Nhật đóng từ nhiều ngày nay ở gần Cầu Truồi đã ra cắt con đường đi tới Huế. Như vậy, mối nguy hiểm là có thật và đã rõ ràng. Vào quãng 19 giờ, chính quyền Huế ra lệnh báo động và quyết định võ trang cho cả kiều dân Pháp bằng súng máy và lựu đạn.
Những tiếng súng đầu tiên nổ ra khoảng 21 giờ 15, và sau đó là cuộc chiến đấu chống quân Nhật ở các khu sứ quán, quanh dinh khâm sứ, sở công chính, trại lính Đông Dương và ở khu nhượng địa. Một cuộc chiến hoàn toàn không cân sức, chống một kẻ thù đông hơn gắp nhiều lần, sử dụng trọng pháo và cả không quân. Vào khoảng 7 giờ 30 sáng hôm sau thì khu sứ quán gục ngã trước, rồi đến 10 giờ thì khu dinh khâm sứ, và đến 17 giờ thì không còn nghe một tiếng súng nào nữa. Cả thành phố Huế đã hoàn toàn rơi vào tay quân Nhật.
Tổn thất về phía Pháp là khá nặng nề: chỉ nói riêng về số 1.140 lính Pháp của trung đoàn Trung Kỳ - Ai Lao đã có 51 tử vong tại trận, trong số đó có 13 sĩ quan, 11 người chết vì các vết thương quá nặng, 53 người bị thương, 41 người chết khi rút lui, trong số đó có 3 sĩ quan, 90 người mất tích. Nói chung tổng số thiệt hại của quân Pháp là 251 người, bằng một phần tư quân số. Còn 300 người sống sót, từ thành phố Huế chạy ra, chia thành các nhóm nhỏ, đi sâu vào dãy Trường Sơn, nhưng suốt trong năm tháng luôn đụng đầu với quân Nhật vào lùng sục.
Ở Tourane, ở Quang Ngãi cũng không hơn gì. Đám tàn quân chạy lên cao nguyên Bolovens, thương vong nhiều, phần vì chống cự lại quân Nhật, phần vì bệnh tật, đói khát và kiệt sức. Đại tá Hesse d’Alzon, sau này, trong một cuốn hồi ký có giá trị, gọi đó là “sự hấp hối của những người rừng kiệt lực, bị săn đuổi và bị phản bội”.
Ở Lào có lẽ may mắn hơn cả. Ở Thượng Lào, đại úy Mayer chỉ huy tiểu đoàn 10 RMIC đóng ở Vientiane. Ông ta cũng là một người cầm đầu Ban Hành động (Service action) và mạng lưới của ông mang tên “Donjon” là một trong sáu mạng lưới của Đông Dương. Trong đêm 9 tháng 3, đội quân của ông thoát ra khỏi được Vientiane, rút lui lên phía bắc theo hướng Luang Phabang, bị quân Nhật đuổi theo cho mãi đến sông Nậm U. Từ đây ông rút tới được Mường Sai, vượt biên qua đất Miến Điện.
Ở Trung Lào điều kiện có thuận lợi hơn. Được sự hỗ trợ của Ban Hành động, đội quân ở đây bắt liên lạc được với Calcutta, Ấn Độ, và được “lực lượng 136” tiếp viện cho người và võ khí. Ngay từ trước cuộc chính biến, 319 người Âu, 200 lính Đông Dương được thả dù xuống phía bắc Luang Phabang, Paksane, Thakhet và giữa Savanakhet - Saravane. Thiếu tá Infeld ở đây đã có thì giờ tổ chức bốn đội biệt kích, giúp cho những người lính sống sót chạy được sang đất Trung Hoa. Quân Nhật biết rất tường tận các hoạt động này, nên những cuộc đàn áp khủng bố ở Lào là cực kỳ tàn bạo.
Tại Thakhet đêm 9 tháng 3, có khoảng 100 người Pháp kể cả phụ nữ và trẻ em. Đội quân ở đây đã cầm cự suốt đêm, nhưng vào khoảng 8 giờ sáng thì phải đầu hàng. Trung úy Tavernier may mắn thoát được ra ngoài cùng với một số binh lính của ông và tản được vào rừng gần ngay đó.
Tất cả những người Pháp còn sống sót bị quân Nhật lùa vào một khách sạn nhỏ mang tên Bungalow. Họ bị dồn vào các văn phòng với 14, 15 người mỗi phòng. Các cửa đều đóng kín mít, cửa sổ thì bị đóng đinh. Trong bóng tối họ phải nằm dưới đất và được nuôi bằng những chậu cơm với rau muống.
Trong số những người bị bắt giam ở đây có: ông René Colin, nguyên chánh văn phòng của Toàn quyền Catroux, bây giờ là Công sứ Thakhet, hai ông giám mục là những đức cha Gouin, đức cha Thonime, cùng hai linh mục khác và một bác sĩ có tên là Theron. Trong sáu ngày liền, tất cả mọi người đều bị tra tấn hết sức dã man bằng nước, bằng điện để tra khảo về mạng lưới kháng cự bí mật.
Ngày 16 tháng 3, vào quãng 19 giờ, rồi lần thứ hai vào quãng 21 giờ, hầu hết những tù nhân nam giới bị lùa lên một chiếc xe tải bít bùng, mang đi đâu không biết và không thấy trở về nữa. Ở lại khách sạn lúc đó chỉ còn lại một vài người nam giới, phụ nữ và trẻ em.
Ngay sáng hôm sau, đã có tin là những người bị bắt đi hôm trước đều đã bị hành quyết hết. Một năm sau, “Ban điều tra tội ác chiến tranh” của Pháp đã tìm ra nơi trước đây là doanh trại quân Pháp, một hố chôn tập thể 35 tử thi, có người bị chặt đầu, có người bị giết bằng súng hay lưỡi lê, có cả người bị chôn sống nữa. Bác sĩ Theron bị chúng tra tấn, đánh nát cả hai đầu gối, cũng bị chúng bắt những người cùng đi, khiêng đến chỗ hành quyết để giết. Những người nam giới còn sống sót mấy ngày sau cũng bị giết chết, trong số đó có ông Colin, hai vị giám mục và linh mục Thibaud. Đặc biệt quân Nhật muốn trả thù ông Colin trước đó đã cho đốt đi một kho nhựa thông của chúng ở Nakay. Chúng mang ông cùng các vị tu sĩ đến đó chặt đầu, và bắt dân làng phải phơi thây họ ra, không được đem chôn. Sau đó mấy ngày, trung úy Tavernier được những người dân Lào báo cho biết ban đêm đã bí mật về đem xác vào rừng chôn tạm. Chỉ có ba người không bị chúng giết vì chúng còn muốn dùng đến chuyên môn kỹ thuật của họ về điện, về khai thác gỗ và thiếc.
Sau cuộc thảm sát, phụ nữ và trẻ em bị dồn đi ở các nơi khác, nhưng cứ hai ba ngày chúng lại bắt chuyển chỗ ở một lần. Rồi năm tháng sau, ngày 23 tháng 8 năm 1945, có lẽ để thủ tiêu các nhân chứng chúng dùng súng lục bắn chết bà Couris cùng đứa con trai nhỏ của bà, bà Raymond cùng với một số người khác nữa. Chỉ có hai người Pháp may mắn không chết vì chỉ bị thương, được những người Lào cứu chữa cho, trong đó có ông Raymond mà vợ đã bị bắn chết.
Ở Napé, ở Vientiane, ở Savanakhet và ở nhiều nơi khác nữa cũng có nhiều cuộc tra tấn và thảm sát tương tự. Ý đồ rõ rệt của Nhật không những là muốn tiêu diệt mọi lực lượng kháng cự của Pháp, mà bằng những hành vi hết sức dã man, bỉ ổi, nhất là đối với phụ nữ da trằng, chúng còn muốn tiêu diệt cả uy tín của người Pháp trước mặt người dân địa phương.
Tên tội phạm chiến tranh Nhật phải chịu trách nhiệm chính về những cuộc tra tấn và thảm sát này là viên sĩ quan tình báo Arai. Hắn đã đến ở Thakhet từ nhiều tháng trước cuộc chính biến, trong bộ áo khoác là nhà buôn và mở một cửa hàng bán đồ chơi trẻ em trong thị trấn. Đến đêm 9 tháng 3, hắn mới khoác quân phục vào và cầm súng đi. Rất nhiều người dân Lào đã biết rõ mặt hắn.
Đây là cách làm phổ biến của Nhật. Từ khi đặt chân lên đất Đông Dương họ đã cho mai phục trong các thành phố, các trung tâm lớn nhỏ, ngay cả trong một số dịch vụ của Pháp những tên tình báo, những sĩ quan trá hình dưới các dạng nhà buôn, nhà kỹ nghệ, nhà nghiên cứu, nhà báo... để điều tra tình hình, nắm mọi đầu mối, đợi ngày hành động. Đêm 9 tháng 3, rầt nhiều tên Nhật, dân chúng đã quen mặt, hàng ngày vẫn tỏ ra là những nhà buôn lịch thiệp dễ dãi, bỗng khoác quân phục vào, và trở thành những con quỷ dữ khát máu giết người không gớm tay. Chuyện đã xảy ra ở Hà Nội, ở Hải Phòng, ở Huế, ở Đà Nẵng, ở Sài Gòn... và ở nhiều nơi khác nữa...
Ở Cao Miên thì có thể nói sự bất ngờ đến mức tuyệt đối. Từ những nhà cầm quyền dân sự, những sĩ quan chỉ huy quân sự, chứ chưa nói đến những người dân thường, không một ai hay biết một chút gì cả. Đến ngay cả cái không khí căng thẳng cảm thấy được hai ba ngày trước cuộc chính biến thì ở đây cũng không có nốt.
Buổi chiều hôm đó, như thường lệ, các nhà buôn Nhật đóng cửa hàng, và đến đúng giờ N, họ mặc quân phục vào rồi vác súng đeo gươm ra đi trong đêm tối. Thế là...
Thủ đô Phnôm Pênh bị chiếm trọn vẹn trong không đầy một tiếng đồng hồ. Rồi tất cả các doanh trại của quân đội Pháp đều rơi vào tay quân Nhật nội trong đêm 9 rạng ngày 10 chỉ trừ có một trung đội của trung đoàn lính Miên, do thiếu tá Lavie chỉ huy, rút được lên dãy núi Cardamomes, cố thủ ở đó cho đến ngày quân đội Nhật đầu hàng ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Thế là toàn bộ Đông Dương nằm dưới gót giày của quân phát xít Nhật. Chủ quyền và uy tín của thực dân Pháp, sau một đêm, chỉ còn là những ký ức đen tối của gần một thế kỷ đô hộ.


Phụ lục - 1 -
Vài nét về việc phòng thủ Đông Dương của quân lực Pháp

ể từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi, sau khi đã thôn tính được ba nước Việt, Miên, Lào, cho đến thế chiến thứ nhất, Pháp tự coi là đã đứng chân được trên bán đảo Đông Dương và chỉ lo giữ vững, củng cố địa vị của mình ở Viễn Đông. Sau thế chiến thứ nhất, Pháp lại ở trong phe thắng trận, nên chủ quyền của Pháp ở Đông Dương lại càng vững vàng, không lo bị một cường quốc nào khác đến giành giật cướp mất thuộc địa của mình.
Vì vậy, với quan điểm đó, việc phòng thủ Đông Dương đối với Pháp chủ yếu chỉ là phòng thủ trong nội địa, chống lại những cuộc khởi nghĩa nổi dậy của nhân dân ba nước vùng lên giành lại độc lập tự do.
Nói chung, so với các cường quốc khác trên thế giới, thì quân đội Pháp được tổ chức, huấn luyện và trang bị theo những quan điểm rất lạc hậu về chiến tranh, của những trường phái cũ, với những điểm phòng thủ cố định, những phòng tuyến vững chắc không thay đổi mà điển hình là phòng tuyến Maginot . Quan điểm này hoàn toàn không đáp ứng được với cuộc chiến tranh hiện đại nên trong thế chiến thứ hai, Pháp đã nhanh chóng gục ngã. Ở chính quốc đã như vậy thì ở Đông Dương, quân đội Pháp lại càng lạc hậu và yếu kém hơn nữa. Nó chỉ có tính cách của một đội quân chiếm đóng, không thể nào đủ sức chống lại một cuộc tấn công từ bên ngoài vào, nhưng lại được bố trí và trang bị cốt chỉ để đàn áp những dân tộc nghèo, yếu của ba nước Đông Dương, bị tước hết võ khí, dồn vào một thế bất lực, không thể nào chống trả được.
Trước một bối cảnh diễn biến phức tạp ở Châu Âu và Viễn Đông, ngày 24 tháng 5 năm 1938, chính phủ Pháp ra sắc lệnh tổ chức một cuộc công trái 40 triệu đồng bạc để lấy tiền dùng vào việc phòng thủ Đông Dương. Vào cuối năm 1939, chính phủ thuộc địa ở Đông Dương cũng cho thành lập một quỹ riêng, gọi là “quỹ vũ trang” bằng cách tăng một số thuế gián thu mỗi năm thu được vào khoảng 10 đến 15 triệu đồng bạc.
Vào tháng 7 năm 1939, kế hoạch phòng thủ Đông Dương được triển khai: tiền công trái dùng để xây dựng mấy sân bay và các doanh trại quân đội. Vịnh Cam Ranh được sửa sang lại, một căn cứ cho tàu ngầm được xây dựng ở Sài Gòn, Vũng Tàu được củng cố, một nhà máy làm đạn được khởi công, một đường bộ song song với đường tàu hỏa đi Vân Nam được bắt đầu xây dựng...
Vấn đề cán bộ là gay go nhất. Vào tháng 9 năm 1939, tất cả các quan chức về nghỉ ở Pháp phải trở lại Đông Dương ngay để giữ các chức vụ sĩ quan và hạ sĩ quan trong đội quân bản xứ sẽ được tuyển mộ và thành lập...
Nhưng vào lúc đó, chương trình này là rất chậm đối với các yêu cầu đã trở nên cấp bách. Vả lại nó cũng không đáp ứng được với những phương tiện tấn công của chiến tranh hiện đại đòi hỏi muốn phòng thủ được Đông Dương là một địa bàn rộng lớn, có một bờ bể dài đến 2.500 cây số, một biên giới dài hàng mấy chục ngàn cây số, thì phải có một lực lượng hải quân và không quân rất mạnh mới đương đầu nổi.
Thế mà vào những năm 40 này, thì thực lực của quân đội Pháp ở Đông Dương có thể tóm tắt được như sau:
Về hải quân chỉ vỏn vẹn có một chiếc tuần dương hạm Lamotte - Picquet, và 4 chiếc tàu hộ tống. Chiếc tuần dương hạm thì được đưa vào hoạt động từ năm 1926, có tốc độ khá, được trang bị 8 khẩu đại bác 155 li nhưng hoàn toàn thiếu sự bảo vệ và dễ bị tấn công. Ngày 12 tháng Giêng năm 1945, nó đã bị một máy bay Mỹ từ một tàu sân bay ở ngoài khơi vào, bổ nhào xuống đánh bom và chìm ngay trên sông Sài Gòn. Hai chiếc tàu hộ tống La Marue và Le Talure là những chiếc tàu chiến nhỏ 575 và 660 tấn, hạ thủy từ năm 1916 và 1919. Chỉ có hai chiếc Dumont d’Urville và Amiral Chamer, 2.000 tấn mỗi chiếc, đóng riêng cho vùng bể nhiệt đới, thì có mới hơn, được hạ thủy vào những năm 1932 và 1933. Toàn bộ hạm đội này tổng cộng chỉ có 12.480 tấn với một thủy thủ đoàn 950 người, 16 khẩu pháo cỡ nòng to hơn 120 li, 10 khẩu nòng bé hơn và 12 quả ngư lôi.
Lực lượng không quân có thể coi gần như một con số không. Tất cả vỏn vẹn có được 4 chiếc phi cơ chiến đấu Morane 406, sau tăng lên được đến 20 chiếc, tốc độ cao nhất chỉ có 450 cây số giờ, đủ xăng bay được 3 giờ, trang bị có 3 súng liên thanh 20 li. Còn thì là những chiếc máy bay đã quá cũ kỹ: 6 chiếc Potez 543, tốc độ 200 cây số giờ dùng để đi thám thính, 4 chiếc Farman 221, bay 200 cây số giờ, mang được 800 ký bom, 40 chiếc Potez 25T02 quá già nua, bay chậm như rùa bò, 100 cây số giờ, làm mồi cho những chiếc máy bay Xiêm tập bắn. Cho đủ bộ, cũng có cả 10 chiếc thủy phi cơ Loire 30 và 6 chiếc máy bay y tế P29.
Còn súng phòng không thì chỉ có ba đội: hai đội liên thanh Oerlikon 20 li và một đội đại bác Nga 76,2 li. Khi máy bay Xiêm đến ném bom, bắn phá giữa ban ngày cũng chịu, không chống trả được, súng phòng không thì quá thiếu, máy bay chiến đấu có bay lên thì cũng bị bắn rụng ngay.
Trên mặt đất, lực lượng lục quân cũng quá yếu: tổng số quân là hơn 90.000 người, trong số đó chỉ có 18.000 người là lính Âu, phải đóng rải ra trên một địa bàn rộng hàng vạn cây số vuông. Trang bị vũ khí thì vừa thiếu, vừa rất lạc hậu. Đạn dược cũng hết sức thiếu, mỗi khẩu đại bác 75 chỉ có 80 viên đạn, đã để lâu ngày không được thay thế. Trọng pháo hoàn toàn không có. Những súng tự động rất thiếu, mẫu mã cũng rất cũ, không thể đối phó được với những súng của Thái Lan, vừa nhiều vừa hiện đại, phát huy được hết hiệu lực trong những rừng rậm ở Cao Miên và Lào. Về xe cơ giới thì không có xe tăng, chỉ có vài xe xích nhỏ (chenillettes) đã quá già nua, không có phụ tùng thay thế.
Địa hình của ba nước Đông Dương lại rất phức tạp, nếu xảy ra chiến tranh thì các chiến trường sẽ ở cách nhau rất xa, trong khi đường sá giao thông và các phương tiện thông tin liên lạc lại rất thiếu sót.
Bao trùm lên tất cả là “một sức ỳ của ban chỉ huy tối cao” (une inertie du Haut - Commandement) bị xơ cứng trong những kinh nghiệm và sự tự mãn chiến thắng dễ dàng chống nhân dân ba nước Đông Dương, chống lại cả những học thuyết mới về chiến tranh. Theo một nhà quân sự Pháp thì “khách quan mà đánh giá, trong giả thuyết ở Đông Dương, nếu bị một sức ép phối họp của Nhật và Xiêm, thì sẽ là một cuộc chiến đấu tuyệt vọng, chắc chắn dẫn đến một thất bại nhanh chóng và nặng nề”.
Chú thích:
Phòng tuyến Moginot là một hệ thống phòng thủ ở Đông bắc nước Pháp, được xây dựng rất tốn công tốn của trong chín năm, từ 1927 đến 1936 mới xong, mang tên của vị Bộ trưởng chiến tranh lúc đó André Maginot là người đã khởi xưởng ra phòng tuyến này. Phòng tuyến đã để hở sườn không bảo vệ biên giới với Bỉ, nên trong cuộc thế chiến thứ hai, nó hoàn toàn vô ích, không có một tác dụng gì đối với đội quân cơ giới hiện đại của Đức quốc xã.

Cuộc xung đột Pháp Thái

ào đầu năm 1940, những sự kiện xảy ra ở Bắc Kỳ, tuy đã bắt đầu nghiêm trọng nhưng chưa làm cho chính quyền thuộc địa ở Đông Dương lo lắng nhiều như đối với mối hiểm họa ở sát sườn phía tây do nước Xiêm láng giềng gây ra.
Ở Xiêm, sau cuộc đảo chính ngày 24 tháng 6 năm 1932 đưa phái quân sự của Luang Phibul lên nắm quyền, nước Xiêm chuyển mình, thắt chặt những mối quan hệ với Đức, Ý, Nhật. Vào tháng 11 năm 1936, Xiêm xé bỏ hết tất cả các hiệp ước đã ký kết trước đó với các cường quốc phương Tây. Đặc biệt trong nước Xiêm dấy lên một phong trào chống Pháp dữ dội. Và Xiêm bắt đầu đi vào con đường vũ trang tích cực, đặc biệt là về hải quân. Từ 1935 đến 1937, ngân sách của hải quân được tăng lên gấp bội để thuê đóng ở Ý và Nhật những tàu ngầm, tàu phóng ngư lôi, tàu hộ tống, tàu thả mìn, tàu tuần tiễu và nhiều tàu nhỏ khác. Xiêm cũng đàm phán mua hai chiếc tuần dương hạm nhẹ, mỗi chiếc 4.000 tấn và đưa đơn đặt hàng đến hãng Glen I. Martin của Mỹ để mua phi cơ chiến đấu.
Ngày 23 tháng 6 năm 1939, Xiêm chính thức đổi tên là nước Thái Lan (Thailand) với ý nghĩa bao gồm tất cả những người dân tộc Thái ở Đông Nam Á. Rồi các báo chí Thái Lan tuyên truyền rầm rộ việc đòi xét lại hiệp ước 23 tháng 3 năm 1907 quy định biên giới với Đông Dương và hiệp ước năm 1908 ký với Anh quy định biên giới với Miến Điện và Malaixia.
Trước tình hình đó, ngày 22 tháng 6 năm 1939, hai ban tham mưu quân đội Pháp và Anh phải họp ở Singapore để bàn về một kế hoạch phòng thủ chung Hồng Kông, Đông Dương và Malaixia. Cuộc hội nghị không đưa đến một kết quả thực tiễn nào, vì mỗi bên đều chờ đợi ở phía bên kia những sự hỗ trợ mà chính bản thân mình không thể cung cấp được.
Ngày 12 tháng 6 năm 1940, một hiệp ước không xâm lược đã được thỏa thuận giữa Pháp và Thái Lan, chỉ còn chờ chính phủ hai nước phê chuẩn, thì nước Pháp phải đầu hàng Đức quốc xã. Băng Cốc tranh thủ ngay thời cơ này đòi điều kiện phê chuẩn là phải trả lại cho Thái Lan những tỉnh của Lào ở hữu ngạn sông Mê-kông.
Vào tháng 10 đã bắt đầu có những sự kiện khởi hấn của Thái Lan ở biên giới phía Tây của Đông Dương. Ngày 14 tháng 10, Vichy đề nghị thành lập một ủy ban hỗn hợp để bàn việc phân chia các hòn cù lao trên sông Mê-kông và một ủy ban khác để giải quyết các sự kiện ở biên giới. Còn tất cả các yêu sách về đất đai trên lãnh thổ Đông Dương là cương quyết từ chối không thể chấp nhận được. Thế là các sự kiện khiêu khích dồn dập xảy ra.
I. Kế hoạch Jacomy
Các phương tiện truyền thông đại chúng của Băng Cốc trở nên khiêu khích một cách hết sức gay gắt. Họ tuyên truyền rầm rộ “tính đống nhất về dân tộc” (identité de race) giữa người Thái và người Miên, nêu lên quyền sở hữu lịch sử của họ về các tỉnh Battambang, Sisophon, Siêmreap, đã bị Pháp dùng võ lực chiếm đóng trước đây. Họ đưa tin Pháp đã dùng phi cơ, tàu chiến và bộ binh xâm phạm lãnh thổ của Thái Lan. Đồng thời họ trục xuất một số kiều dân Pháp trong số đó có những nhà truyền giáo nam và nữ, sau khi những người này bị “giam giữ trong những lồng bằng sắt”. Đêm 3 tháng 12, một nhà báo nước ngoài bị bắn chết khi vượt qua biên giới ở Poipét. Không ngày nào quân Thái không bắn súng vào các đồn tiền tiêu để khiêu khích. Máy bay Thái Lan đến ném bom xuống các tỉnh Paksé, Vientiane, Saravan và nhiều địa điểm khác. Trọng pháo Thái nã đạn vào Savamakhet, Thakhet...
Hà Nội đưa tin sẵn sàng nối lại các cuộc thương thuyết ngày 12 tháng 6 đã bị Thái đơn phương bác bỏ. Nhưng các cuộc tiến công của Thái vẫn tiếp tục leo thang ngày càng dữ dội hơn. Vào những tuần lễ cuối cùng của tháng Chạp năm 1940, cuộc xung đột đã thực sự trở thành một cuộc chiến tranh không tuyên bố.
Ngày 7 tháng Giêng năm 1941, trong cuộc họp thường kỳ của hội đồng chính phủ, Toàn quyền Decoux tuyên bố quyết định sẽ đối đầu quyết liệt với sự khiêu khích của Thái Lan. “Chúng ta (Pháp) đã trả đũa mọi đòn đánh và chú ý không để bất cứ một sự khiêu khích nào không được đáp lại. Chúng ta đã đánh mạnh khi cần thiết, và chúng ta cương quyết sẽ đánh mạnh hơn nữa, nếu những người láng giềng của chúng ta bắt buộc chúng ta làm như vậy...”
Vào ngày 15 tháng Giêng năm 1941, Pháp đã tập trung ở biên giới phía Tây Cao Miên một quân số lên tới 14.000 người, rải ra trên một vòng cung dài khoảng 150 cây số. Nhưng trong vùng mỏ vịt bị đe dọa nhất thì chỉ có 4 tiểu đoàn, mà hai tiểu đoàn là lính bản xứ. Một tiểu đoàn lê dương được để dự trữ, chưa tham chiến. Có một đại đội cơ giới, nhưng chỉ có một đội phòng không với súng liên thanh 20 li, rút từ Battambang và đặt trên xe cam-nhông.
Đại tá Jacomy đề ra kế hoạch đánh một đòn mạnh vào cánh phải của quân Thái ở xã Yan Đăng Cum, cùng phối hợp với một đòn thứ hai đánh vào Phum Préav rồi thừa thắng sẽ đánh vào Poipét với những lực lượng dự trữ ở Sisophon.
Nếu kế hoạch này thành công thì sẽ đẩy lùi được quân Thái về bên kia biên giới. Kế hoạch được thực hiện một cách thiếu khẩn trương, việc điều động các lực lượng phải tiến hành vào ban đêm, từng nửa chặng một, xuất phát từ Sisophon, trên một con đường mòn duy nhất, binh lính phải đi bộ, mà có nơi bụi đường dày đến 30cm rất khó đi.
Thêm nữa, quân Thái được một số phần tử trong dân chúng và rất nhiều điệp viên báo cho biết tường tận sự chuyển dịch của quân Pháp, nên đã cảnh giác, tăng cường lực lượng để đối phó. Kế hoạch dự định sẽ tấn công vào tảng sáng ngày 16 tháng Giêng, thì quân Thái đã chủ động tấn công nửa giờ trước.
Kết quả là những đội tiền quân của Pháp thì bị đánh lùi xa những vị trí dự định, còn những toán quân còn đang đi sau thì bị đánh bất ngờ trong những trận tao ngộ chiến. Trong rừng rậm, trọng pháo không có máy bay chỉ điểm đành bất lực, một đội bắn vu vơ được vài trái, còn đội kia im bặt. Trong những điều kiện như vậy, vai trò của bộ binh hết sức bị hạn chế. Các tiểu đoàn binh lính bản xứ thì tan rã chạy hết. Đến hai giờ chiều ngày 16, thì kế hoạch Jacomy đã hoàn toàn bị thất bại, có lệnh rút lui tất cả trở lại Sisophon.
Cuộc thất trận này đã bị chỉ trích rất chua cay ở Đông Dương cũng như ở chính quốc. Báo chí Pháp gọi đó là “một chứng minh hùng hồn sự yếu kém về những phương tiện phòng thủ Đông Dương của chúng ta (Pháp)”. Rút kinh nghiệm của trận đánh thấy nổi cộm lên những điểm sau đây:
- Quân địch đã hành động như biết rõ từng chi tiết của kế hoạch Jacomy và tương kế tựu kế làm ngược lại tất cả những gì kế hoạch này dự định: quân Pháp định tiến công bằng đường mòn Yan Đăng Cum và chặn đường mòn Phum Préav, thì quân Thái lại đánh trước vào Phum Préav và giữ chân quân Pháp ở Yan Đăng Cum. Giờ khởi sự của quân Pháp cũng đã được quân địch biết rất rõ, nên chủ động tấn công trước nửa giờ, lợi dụng được triệt để yếu tố bất ngờ cả về thời gian lẫn địa điểm tấn công.
- Cuộc chiến đấu diễn ra trong rừng rậm, trọng pháo trở nên vô dụng, trong khi quân Thái được trang bị rất nhiều súng tự động cá nhân, từ trong các bụi rậm bắn ra như mưa, phối họp cả hai cách chiến đấu hiện đại và du kích trên một địa bàn mà họ quen thuộc.
- Không quân Pháp thì rất thiếu lại rất yếu, trong khi các máy bay Thái làm chủ bầu trời trên Yan Đăng Cum và Phum Préav. Các trận ném bom, cùng sự tấn công của các xe tăng thiết giáp Thái đã làm mất tinh thần quân đội chưa từng quen với một cuộc chiến hiện đại như vậy. Một nhà quân sự Pháp đã tóm tắt mọi sự yếu kém của quân đội Pháp trong nhận xét sau: “Người ta thấy nổi lên ở đây một sự thiếu óc tưởng tượng, một sự quá thừa lòng tự tin, và kết quả của những quan niệm về chiến tranh được soạn thảo theo những trường phái cũ về phòng thủ cố định trên một trận tuyến không thay đổi, trong khi địch thủ lại có những phương tiện cơ động hiện đại để di chuyển và bao vây...”
II. Trận Koh Chang
Rất may là sau cuộc bại trận này của quân đội Pháp, quân Thái Lan chưa kịp khai thác được chiến thắng của họ, thì ngay ngày hôm sau 17 tháng Giêng xảy ra một trận thủy chiến làm thay đổi thế cờ và cứu vãn được danh dự của Pháp.
Bộ chỉ huy Pháp, căn cứ vào cuộc tấn công của Thái và Cao Miên vào đồng bằng sông Cửu Long, nhận định sớm hay muộn, thế nào Thái cũng sẽ huy động hải quân vào cuộc xung đột. Vì vậy cần phải đi một bước trước, tấn công phá hủy ít nhất một phần hạm đội của họ.
Tương quan lực lượng của hai bên lúc đó là như sau:
- Về phía Pháp, như ở phụ lục trên đã nói, có một tuần dương hạm Lamotte - Picquet và bốn tàu hộ tống La Mame, Le Tahure, Dumont d’Urville, Amiral Chamer, tổng cộng 12.480 tấn với một thủy thủ đoàn 950 người, 16 khẩu pháo nòng cỡ 120 li và to hơn, 10 khẩu cỡ nhỏ hơn và 12 quả ngư lôi. Căn cứ là Sài Gòn cách biên giới 450 cây số.
- Về phía Thái Lan, có 2 thiết giáp hạm 2.300 tấn, mới đưa vào hoạt động từ năm 1938, 10 tàu phóng ngư lôi mà 9 trong số đó được đóng ở Ý, mới hoạt động từ năm 1935 và 1937, 6 tàu hộ tống mà 4 chiếc mới mua, 4 tàu ngầm mới đưa vào hoạt động trước chiến tranh, hơn 10 chiếc tàu tuần tra bờ biển mới mua ở Ý và Nhật. Về võ khí, Thái có 20 khẩu cỡ 120 li và to hơn nữa, 56 khẩu cỡ trung bình và 88 ngư lôi. Căn cứ là Satahib cách biên giới 130 dặm.
Với một tương quan như vậy, một trận hải chiến sẽ là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm đối với Pháp. Nếu tàu bị hư hại thì khó lòng có thể trở về nơi ẩn náu an toàn. Lại phải tính đến tất cả tàu phóng ngư lôi, tàu ngầm của căn cứ Satahib và máy bay ném bom nặng, nhẹ từ các căn cứ Chantaboum và Krat bay lên đuổi theo.
Vì vậy chỉ có thể dồn toàn bộ lực lượng, đánh vào một điểm đã chọn đúng, trong một thời gian rất ngắn, lợi dụng triệt để yếu tố bất ngờ với điều kiện tuyệt đối bí mật thì mới mong thắng được, giống như trong một trận biệt kích vậy.
Trong một cuộc hội nghị quân sự họp vào ngày 15 tháng Giêng ở Sài Gòn, sau khi cân nhắc kỹ và quyết định chấp nhận mọi nguy cơ, bất trắc, Đô đốc Decoux đồng ý với kế hoạch của Phó đô đốc Terraux vạch ra và cho thi hành ngay không chần chừ để giữ bí mật. Cả hạm đội được đặt dưới quyền chỉ huy của đại úy hải quân Bérenger lên đường ngay tiến tới vịnh Thái Lan.
Vào chiều ngày 16, máy bay thám thính của Pháp báo cáo thấy hai nhóm tàu của Thái, lực lượng ngang nhau, một nhóm đang đậu ở căn cứ Satahib, nhóm kia ở đảo Koh Chang. Nhóm thứ hai này được chọn làm mục tiêu tấn công vào rạng sáng ngày 17, mặc dù thiếu các hải đồ mà vùng này thì có nhiều đá ngầm, và những đáy bùn ở gần bờ. Vào sáng ngày 17, một máy bay thám thính Pháp bay trên đảo Koh Chang, bị ba chiếc tàu phóng ngư lôi bắn theo.
Hạm đội Pháp chia làm ba nhóm mở hết tốc lực tiến tới mục tiêu, các tàu địch trông thấy nổ súng trước. Tất cả các cỡ pháo lớn nhỏ trên 5 tàu Pháp bắn cấp tập. Chỉ sau hai phút, một chiếc phóng ngư lôi Thái bị lật nghiêng hẳn, chiếc thứ hai nổ tung và chiếc thứ ba chìm dần.
Sau đó chiếc Lamotte - Piequet trông thấy chiếc tàu tuần tiễu Dhombure của Thái, vội tiến đến gần tầm súng, thấy nó đang đi vào vùng có đáy bùn liền nổ súng ngay. Những khẩu 203 li của Thái không địch lại được các khẩu 155 li của Pháp, bắn chính xác. Chiếc tàu tuần tiễu bỏ chạy. Cả 4 chiếc tàu Pháp tới tiếp ứng bắn xối xả. Tháp chỉ huy của chiếc Dhombure trúng đạn. Ba đám cháy lớn bốc lên trên boong tàu. Vừa lúc đó có lệnh rút lui, toàn bộ hạm đội Pháp bị máy bay Thái đuổi theo, nhưng tách ra chạy riêng rẽ, ra được ngoài khơi an toàn. Trận chiến kéo dài trong gần hai tiếng đồng hồ, kết quả khoảng 20% hạm đội chiến đấu của Thái bị đánh chìm hoặc hư hại nặng.
III. Sự hòa giải thiên vị của Nhật
Ngay từ khi Thái Lan mới khởi hấn, Nhật đã định vào “can khéo” đôi bên để ở giữa trục lợi. Vào đầu tháng 12 năm 1940, Nhật đề nghị đứng làm “trung gian hòa giải”, nhưng Vichy từ chối, chỉ thị cho ông Carreau, tham tán ở Băng Cốc làm việc trực tiếp với phía Thái. Thái Lan được Nhật hậu thuẫn, đưa ra những yêu sách quá quắt không thể chấp nhận được, và vẫn tiếp tục tấn công nên cuộc thương lượng đổ vỡ.
Cuộc thủy chiến thắng lợi của Pháp ở Koh Chang đã làm thay đổi phần nào thế cờ bất lợi cho Thái, nên lần này Nhật trực tiếp xông vào can thiệp. Ngay ngày hôm sau, 18 tháng Giêng, vào lúc 6 giờ chiều, viên đại tá Nhật Koike của ban liên lạc Nhật, đã đến Phủ toàn quyền áp đặt ý định phải đình chiến. Rồi ngày 20, chính phủ Nhật chính thức triệu tập đại sứ Pháp ở Tokyo đến để đưa ra đề nghị đứng làm trung gian hòa giải. Từ ngày 22, Nhật cho một hạm đội mạnh gồm 4 chiếc thiết giáp hạm, 12 chiếc tuần dương hạm, cùng các tàu tuần tiễu và hộ tống, lượn đi lượn lại ngoài khơi Vũng Tàu trong lãnh hải Việt Nam để biểu dương lực lượng, lấy cớ thỏa ước Pháp-Nhật ký ngày 30 tháng 8 năm 1940 ở Vichy đã công nhận địa vị đặc biệt và ưu thế của Nhật ở Viễn Đông.
Trước một sức ép bức bách như vậy, ngày 28 vào lúc 10 giờ sáng hai bên phải ra lệnh ngừng bắn. Ngày hôm sau, 29, các đại diện của ba nước họp trên một chiếc tuần dương hạm của Nhật đến đậu tại Sài Gòn. Ngày 31 họ ký vào một bản thỏa ước có giá trị trong 15 ngày quy định các điều kiện ngừng xung đột.
Bản thỏa ước mở đầu bằng một đoạn công nhận địa vị trung gian hòa giải của Nhật rồi đến 10 điều quy định những đường rút lui của quân đội hai bên, những vùng phải hạn chế hoạt động của tàu bè và máy bay, sự ngừng tuyên truyền kích động và tôn trọng tính mạng tài sản của nhân dân.
Ngày 7 tháng 2, phái đoàn Robin của Pháp bắt đầu chính thức đàm phán ở Tokyo với phái đoàn Thái. Việc đầu tiên là thỏa thuận kéo dài thời gian của thỏa ước 31 tháng Giêng đến 11 tháng 2, và cuối cùng đến ngày 7 tháng 3.
Phái đoàn Thái đưa ra những yêu sách vượt rất xa những đòi hỏi ban đầu của họ. Cuộc đàm phán kéo dài trên một kế hoạch cắt nhượng đất đai do Nhật soạn thảo đưa ra. Cuối cùng, dưới sức ép của Nhật, và căn cứ vào tình hình thực tế, cùng những điều khoản trong những thỏa ước ngày 30 tháng 8 năm 1940, Vichy phải nhượng bộ, và phái đoàn Pháp phải chấp nhận một đường biên giới lý thuyết hết sức vô lý về mặt lịch sử, mặt kinh tế, chính trị và cả về mặt dân tộc nữa. Thỏa ước được ký vào ngày 11 tháng 3 năm 1941.
Theo các điều khoản của thỏa ước này, trước hết Pháp phải cắt nhượng cho Thái Lan tất cả vùng lãnh thổ của Lào ở hữu ngạn sông Mê-kông. Sau nữa Pháp phải rời bỏ một phần quan trọng của lãnh thổ Cao Miên về phía Tây của một đường kẻ thẳng góc với vĩ tuyến 15 kéo dài đến tận Biển Hồ, cùng một phần quan trọng của tỉnh Battambang cho đến tận tỉnh Pursát. Tổng số mất tất cả là 70.000 km vuông. Pháp chỉ đấu tranh được một số điểm thứ yếu, mà chưa chắc đối phương đã thi hành, thí dụ: Thái Lan phải phi quân sự hóa những phần đất chiếm được, phải tôn trọng tính mạng tài sản của nhân dân trong vùng, nhất là kiều dân Pháp, phải để cho nhân dân có quyền được lựa chọn nơi cư trú sinh sống...
Thái Lan còn đòi hỏi quốc tế hóa vùng Biển Hồ, còn Nhật thì đưa ra dự kiến thành lập một ủy ban hỗn hợp vĩnh viễn do Nhật chủ trì để giám sát việc phi quân sự hóa và giải quyết mọi vấn đề xung đột trong tương lai giữa Pháp và Thái Lan. Phải mất gần hai tháng đấu tranh trong một bầu không khí rất căng thẳng mới đẩy lui được các yêu sách này. Nhưng Nhật cũng bắt Pháp phải nhận điều kiện không được có bất cứ một thỏa ước hợp tác nào với một cường quốc thứ ba về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự có tính cách bất lợi trực tiếp hay gián tiếp cho Nhật.
Hiệp ước hòa bình được ký kết vào ngày 9 tháng 5 năm 1941 tại Tokyo. Với hiệp ước này, từ nay, sông Mê-kông sẽ là biên giới từ phía bắc xuống phía nam, cho đến điểm sông này cắt vĩ tuyến 15. Con đường nhân tạo đó sẽ là giới hạn phía bắc của Cao Miên. Sau đấy nó ngả theo một góc vuông phía nam đến tận Biển Hồ. Ở đây, một vòng cung 20 cây số đường kính sẽ nối điểm giao thoa giữa hai tỉnh Battambang và Pursat. Còn ở phía nam Biển Hồ, biên giới vẫn theo đường cũ đã vạch ra trong hiệp định 1907.
Sự thất bại nhục nhã này là một bị kich thê thảm đối với nhân dân ba nước Đông Dương. Từ nay Đông Dương sẽ bị cô lập hẳn và rơi vào quỹ đạo hệ thống Đại Đông Á của Nhật.
Đối với Lào, hoàng gia đau buồn sâu sắc, vì tất cả các mộ phần tổ tiên vua chúa Lào đều ở phía hữu ngạn sông Mê-kông, nay nằm trong tay của Thái Lan. Việc cắt đất như vậy là một sự chà đạp thô bạo lên lịch sử lâu đời của một dân tộc hiền hậu, yêu chuộng hòa bình và hữu nghị.
Cao Miên thì mất đứt tỉnh Battambang trù phú cùng với 450.000 người dân Khmer nay trở thành thần dân của vua Thái Lan. Miên còn mất cả rặng núi Phnom Koulen là nơi trong lịch sử lâu đời, người dân Khmer cổ đại lấy đá ở đó để xây dựng Angkor, hiện nay ở đó còn di tích của một thủ đô cũ, và ngày nay là nguồn nước tưới tiêu cho vùng Siêmréap.
Angkor thì còn lại nhưng Thái Lan cương quyết lấy vùng di tích Banteai Srei thuộc nhóm Angkor, phải nhờ đến sự can thiệp của Nhật mới giữ được, nhưng phải đền bù cho Thái một vùng đất khác ở phía nam vĩ tuyến 15.
Vị vua già Sisowath Monivong đau buồn, lo nghĩ đến sinh bệnh và ít lâu sau thì từ trần.
Về phía Pháp, cả ở Đông Dương lẫn ở chính quốc, người ta cay đắng suy nghĩ về những lời tuyên bố long trọng của Nhật Hoàng cam kết tôn trọng chủ quyền Pháp và toàn vẹn lãnh thổ ở Đông Dương. Ngoài sự tổn thất to lớn về vật chất, địa vị, danh dự và uy tín của Pháp ở Viễn Đông đã bị sa sút nặng nề, khó mà hồi phục được.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét