Hiển thị các bài đăng có nhãn quân đội Đức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn quân đội Đức. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

Vì sao Panther là xe tăng thành công nhất của Đức

Các chuyên gia quân sự cho rằng, không phải Panzer hay Tiger mà xe tăng hạng trung Panther (Con Báo) mới là mẫu tăng thành công nhất của nước Đức Quốc Xã trong CTTG 2.


Mùa hè năm 1941, phát xít Đức bất ngờ phát động chiến tranh xâm lược Liên Xô, và đã giành được nhiều thắng lợi lớn. Tuy nhiên, một số lượng nhỏ các xe tăng hiện đại của Hồng quân, như T-34 và KV-1 đã gây bất ngờ lớn cho phía Đức. 

So với xe tăng hạng trung T-34-76 của đối phương, các xe tăng Panzer III và Panzer IV của Đức yếu thế hơn rất nhiều về hỏa lực, tính cơ động cũng như khả năng bảo vệ. Trước bối cảnh đó, phía Đức gấp rút đẩy mạnh việc nghiên cứu chế tạo một loại xe tăng mới. 

Các hãng Daimler-Benz và MAN cùng tham gia thi tuyển thiết kế. Tháng 5/1942, thiết kế cải tiến của MAN (có học tập một số điểm từ Daimler-Benz) đã được Hitler lựa chọn, đồng thời ông trùm phát xít cũng yêu cầu gia cố thêm giáp và tăng cường pháo chính của xe. Đó chính là mẫu thiết kế ban đầu của xe tăng hạng trung Panther.

Đến đầu năm 1943, việc sản xuất hàng loạt loại xe tăng mới bắt đầu, với sự tham gia của nhiều hãng, mà chủ yếu là MAN (Maschinenfabrik Augsburg-Nürnberg), MNH (Maschinenfabrik Niedersachsen-Hannover), Daimler-Benz, mỗi hãng chiếm chừng 1/3 số xe tăng xuất xưởng. Panther được sản xuất chủ yếu với ba phiên bản Ausf.D, Ausf.A và Ausf.G, cùng các biến thể xe tăng chỉ huy, xe công binh 

Ban đầu, thiết kế này được đặt tên là Panzer V, nhưng đến đầu năm 1944, Hitler đã đổi tên chiếc xe thành Panther (Con báo). Cái tên này cũng rất phù hợp với khả năng cơ động cao và sức tiến công mạnh của loại xe này. 

Xe tăng Panther dài 8,86m kể cả nòng pháo, rộng 3,43m và cao 3,10m, nặng 45,5 tấn, kíp chiến đấu gồm 5 người. Về khả năng bảo vệ, giáp tháp pháo của Panther dày đến hơn 100mm, giáp thân trước dày đến 80mm, nghiêng 35 độ ở phần trên - nơi thường bị trúng đạn, cho khả năng chống chịu rất tốt trước các vũ khí chống tăng. Phần dưới của giáp trước cũng dày đến 60mm, nghiêng 35 độ. Ở các vị trí khác, độ dày của giáp cũng lên tới 40-45mm. 

Nhìn chung, nếu kíp lái vận dụng tốt khả năng của xe, phơi bày giáp trước, tránh việc bị hở sườn thì đối phương sẽ gặp rất nhiều khó khăn để tiêu diệt Panther.

Về động lực, xe sử dụng động cơ xăng 12 xi-lanh Maybach HL 230 P30 công suất 690 mã lực, tốc độ vòng quay 3.000 vòng/phút. Đây là loại động cơ cũng được trang bị cho các loại xe tăng hạng nặng như Tiger II, nên rất dễ hiểu là với khối lượng nhỏ hơn nhiều, Panther sẽ có sức cơ động cao hơn.

Xe có thể đạt tốc độ tối đa 46km/h, cự li hoạt động 250km. Về hỏa lực, xe được trang bị pháo chính Kwk 42 L/70 cỡ 75mm, cơ số đạn 79 viên (sau tăng lên 82 viên ở phiên bản Ausf.G), gồm các đạn xuyên chống tăng PzGr 39/42, PzGr 40/42, đạn nổ mạnh Sprgr 42 … 

Đáng lưu ý trong số các loại đạn của Panther là PzGr 39/42 sử dụng lõi wolfram, nặng 6,8kg, có sơ tốc 935m/s, xuyên 111mm giáp ở cự li 1.000m, đủ để bắn hạ nhiều loại xe tăng của Hồng quân và quân Đồng minh. Đạn xuyên giáp PzGr 40/42 mạnh hơn nhưng ít được sản xuất hơn, nặng 4,75kg, sơ tốc đầu đạn 1.120m/s, xuyên 149mm giáp ở cự li 1.000m. Ngoài ra, Panther cũng được trang bị hai súng máy MG34 (một đồng trục pháo chính, một trên nóc xe).



Trên chiến trường, xe tăng hạng trung Panther được biên chế với mỗi tiểu đoàn gồm 96 xe tăng. Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm trung đội thông tin (3 xe tăng Panther biến thể xe chỉ huy Befehlswagen), trung đội trinh sát cơ giới (5 xe tăng Panther) và trung đội kĩ thuật (2 xe sửa chữa Bergepanther dựa trên khung gầm Panther).
Trong biên chế tiểu đoàn gồm bốn đại đội chiến đấu, mỗi đại đội 22 xe tăng Panther (ban chỉ huy đại đội 2 xe, 4 trung đội mỗi trung đội 5 xe). Ngoài ra, tháp pháo 75mm của Panther cũng được sử dụng để chế tạo các lô cốt cố định phòng thủ bờ biển. Các lô cốt kiểu này được gia cố thêm phần nóc, và được gọi là Pantherturm I - Stahluntersatz (phần dưới lô cốt là thép đặc), hay Pantherturm II – Betonsockel (phần dưới lô cốt là bê tông). Tổng cộng đã có 268 lô cốt như vậy được xây dựng, bố trí ở cả mặt trận phía Tây và phía Đông.

Trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai, đã có hơn 6.000 chiếc Panther được chế tạo, bất chấp việc không quân Đồng Minh thường xuyên đánh phá các nhà máy. Dưới góc độ kinh tế, giá thành chế tạo một chiếc Panther là 117.100 mark, không đắt hơn nhiều so với Panzer IV (103.462 mark, bằng 88%), nhưng hiệu quả đáng kể. So với các xe tăng hạng nặng như Tiger I (250.800 mark), giá thành chế tạo Panther chỉ bằng 47%. 

Trên chiến trường, Panther tỏ ra ổn định và hiệu quả hơn nhiều các mẫu xe tăng hạng nặng. giành nhiều thắng lợi lớn. Mikhail Nikolaevich Svirin, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự người Nga đã đánh giá Panther “có thể được xem là loại tăng mạnh-thành công nhất của Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai”. 

Thanh Hoa

Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Vòng cung Kursk: Trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử nhân loại..

Trong ba ngày, hai bên đã tung vào trận đánh những binh đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến trên 1.200 xe tăng và pháo chống tăng tự hành.
Hơn 1.000 xe tăng của Liên Xô và Đức quyết chiến gần thành phố Kursk suốt hai tháng năm 1943, trong trận chiến xe tăng lớn nhất lịch sử các cuộc chiến tranh
Trận vòng cung Kursk (lịch sử Nga gọi là Chiến dịch phòng ngự – phản công Kursk) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai, kéo dài từ ngày 5 tháng 7 đến 23 tháng 8 năm 1943 giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã tại vùng đồng bằng giữa các thành phố Kursk và Kharkov thuộc Liên Xô (cũ), nay thuộc miền trung tây nước Nga và đông Ukraina.
Liên Xô đã phải trả một cái giá rất đắt cho thắng lợi tại trận Vòng cung Kursk.
Trận Vòng cung Kursk là một chiến thắng mang tính chiến lược có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến trường. Thắng lợi của Hồng quân đã đẩy quân đội Đức quốc xã từ thế chủ động lâm vào thế bị động.Tuy nhiên, cái giá của chiến thắng không hề rẻ. Theo số liệu của nhà sử học Grigoriy Krivosheyev, trong trận Kursk, 429.890 chiến sĩ Hồng quân hy sinh, tổng số quân hy sinh và thương vong lên đến 685.456 người.
Trong chiến dịch này, có trận đánh này nổi tiếng là trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày 10 tháng 7 tại Pokrovka và lên đến đến đỉnh điểm là ngày 12 tháng 7 tại cánh đồng Prokhorovka. Trong ba ngày, hai bên đã tung vào trận đánh những binh đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến trên 1.200 xe tăng và pháo chống tăng tự hành.
Sau thất bại tại Stalingrad, mùa hè năm 1943, quân đội Đức quốc xã đã quyết định tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn vào khu vực vòng cung Kursk nhằm làm suy yếu tiềm năng của Liên Xô. Hitler cho rằng một chiến thắng ở đây sẽ khẳng định sức mạnh của Đức, nâng cao uy tín với các đồng minh đang muốn rút khỏi cuộc chiến.
Để phục vụ cho trận đánh chiến lược quyết định này, quân đội Đức quốc xã đã huy động 22 sư đoàn bộ binh với tổng quân số 912.460 binh lính, 17 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn bộ binh cơ giới với tổng số 2.982 xe tăng các loại trong đó có 800 chiếc Tiger – loại xe tăng chiến đấu chủ lực lừng danh của Đức, 9.966 khẩu pháo các loại, 2.110 máy bay chiến đấu. Lực lượng này chiếm đến 17% số sư đoàn bộ binh, 70% số sư đoàn xe tăng, 30% số sư đoàn cơ giới và 60% số máy bay của Đức trên mặt trận phía Đông.
Hitler đã đặt mật danh cho chiến dịch này là Citadel. Ông chính là người đã khai sinh việc đặt mật danh cho các chiến dịch quân sự lớn về sau. Theo sắc lệnh số 6 do Hitler phát hành, tập đoàn quân Trung tâm do Thống chế Günther von Kluge chỉ huy phối hợp cùng Tập đoàn quân số 9 do tướng Walter Model lãnh đạo tạo thành gọng kìm ở phía Bắc.
Tập đoàn quân phía Nam do Thống chế Erich von Manstein chỉ huy phối hợp cùng Quân đoàn Panzer 4 tấn công vào khu vực phía Nam. Ban đầu chiến dịch Citadel dự định sẽ bắt đầu vào ngày 3/5/1943, nhưng sau đó Hitler đã cho hoãn chiến dịch đến ngày 12/6. Ông cho rằng, xe tăng là chìa khóa của chiến dịch nên tiếp tục hoãn chiến dịch đến ngày 5/7 để chờ đợi các vũ khí mới như xe tăng Panzer và nâng cấp xe tăng Tiger.
Về phía Liên Xô, từ các thông tin tình báo và trinh sát thu thập được, Nguyên soái Georgy Zhukov khẳng định rằng, quân đội Đức sẽ tiến hành một chiến dịch quân sự lớn vào khu vực Kursk cách 450 km về phía tây nam Moscow.
Nguyên soái Zhukov đề nghị xây dựng tuyến phòng ngự vững chắc kéo quân Đức sa vào cái bẫy để đập tan lực lượng thiết giáp, tạo điều kiện cho một cuộc phản công quy mô lớn nhằm giành thắng lợi quyết định. Hồng quân đã xây dựng 6 vành đai phòng thủ với chiều sâu 130-150 km trong đó có 3 khu vực phòng ngự chính với chiều sâu 40 km.
Lực lượng công binh Hồng quân đã cài 503.663 quả mìn chống tăng, 439.348 quả mìn sát thương trên 3 khu vực phòng ngự chính. 4.800 km giao thông hào đã được đào chằng chịt trong khu vực. Các bãi mìn tại khu vực Kursk có mật độ 1.700 quả mìn sát thương và 1.500 mìn chống tăng trên km 2, gấp 4 lần mật độ được sử dụng để bảo vệ Moscow.
Lực lượng huy động cho chiến dịch phòng ngự tại vòng cung Kursk lên đến 1,3 triệu quân, 3.600 xe tăng các loại, 20.000 khẩu pháo chủ yếu là pháo chống tăng, 2.729 máy bay chiến đấu các loại. Lực lượng này chiếm 26% tổng quân số Hồng quân, 26% lực lượng pháo binh, 35% máy bay và 46% lực lượng tăng thiết giáp. Việc hoãn kế hoạch tấn công muộn hơn 2 tháng của Đức đã tạo thêm thời gian cho Hồng quân xây dựng tuyến phòng ngự kỹ lưỡng nhất.
Tổn thất về trang thiết bị vũ khí rất lớn, 1.614 xe tăng bị phá hủy trong tổng số 3.600 chiếc tham chiến. 2.349 khẩu pháo các loại bị phá hủy, 1.116 máy bay bị bắn rơi. Các số liệu về tổn thất của quân Đức không rõ ràng. Theo nhà sử học Karl-Heinz Frieser, khoảng 198.000 binh lính thiệt mạng hoặc bị thương, 760 xe tăng bị phá hủy, 524 máy bay bị bắn rơi. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill từng nói “Trận Stalingrad là kết thúc của sự khởi đầu nhưng trận Kursk là khởi đầu của sự kết thúc”.
(Theo Infonet)