Trang

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

Lịch sử Thái Bình Thiên Quốc






Biên khảo/ Hồ Bạch Thảo

I. Quân Thái Bình Thiên Quốc nổi dậy [1850-1854]


1.Bối cảnh lịch sử sau chiến tranh nha phiến :

Dân cùng, tài lực tận, nguyên nhân không xẩy ra trong sớm tối ; nhưng chiến tranh nha phiến là giai đoạn tột cùng sức chịu đựng. Quảng Ðông, Chiết Giang, Giang Tô là những chiến trường chủ yếu. Tại Quảng Ðông, quyên lương hướng từ thương nhân, quan lại bắt lính, đòi lương, ngày ngày cấp bách ; dân chúng Chiết Giang nửa số lưu ly, không cung cấp nổi lương và nhân lực ; tỉnh Giang Tô phải gánh vác nặng nề. Sau chiến tranh cứ nạp 1 thạch lương, phụ thu thêm 3 thạch ; thuế đinh, thuế điền, 1 lạng bạc thu thêm 4,5 ngàn đồng tiền. Sự đóng góp nặng nề của dân đương nhiên do bởi khoản tiền bồi thường cho người Anh, lần thứ nhất 600 vạn nguyên, lấy từ ngân khố các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang ; số còn lại 1.500 vạn nguyên, thì 8/10 lấy từ các tỉnh.

Về phương diện chính trị, sau chiến tranh nha phiến uy tín chính phủ hoàn toàn táng thất, nhưng dân lại vùng lên. Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh nhận định rằng “ Quan sợ ngoại Di, ngoại Di sợ trăm họ ” “ Dân có thể làm sợ cái người mà quan sợ, thì dần dần dân sẽ coi thường nắm quan trong tay ; ngoại hoạn tuy bớt nhưng nội hoạn sẽ dấy lên.”

Rõ ràng sau chiến tranh nha phiến nội loạn đã xẩy ra không ngớt. Năm 1843 đặc biệt xẩy ra tại các tỉnh Quảng Ðông [Guangdong], Quảng Tây [Guangxi], Hồ Nam [Hunan] ; như Thiên Ðịa hội tại huyện Hương Sơn, Quảng Ðông ; dân đói nổi dậy tại Vũ Xương [Wugang], Hồ Nam. Kế đó các mối loạn khác xẩy ra liên tục hàng năm, như vụ dân bị mất mùa đói khát nổi loạn tại Quảng Tây ; Lý Nguyên Phát, Lôi Tái Hạo nổi dậy tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam] ; tại Quảng Đông, bọn Trương Gia Phúc mang đồ đảng mấy ngàn cướp phá bốn phương. Đến năm 1850 Thiên Ðịa hội hoạt động mạnh tại tỉnh Quảng Ðông, vây thành Triệu Khánh, đánh bại quan quân tại lộ phía bắc, xâm nhập tỉnh Quảng Tây ; trong 11 phủ của tỉnh này có 8 phủ bị Thiên Ðịa hội chiếm cứ, đó cũng là lúc Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn chính thức cử sự.

2. Cuộc vận động phản Thanh của Hồng Tú Toàn và đồ đảng :

Hồng Tú Toàn [1814-1864] là dân ngụ cư tại huyện Hoa [huado], tỉnh Quảng Ðông, lúc nhỏ học 9 năm trường tư, tương đối có tài ; năm 18 tuổi mở lớp dạy học. Là một phần tử trí thức lúc bấy giờ, chỉ muốn thi đậu để được công danh phú quý ; Hồng 2 lần đến Quảng Châu ứng thí, nhưng không đậu ; năm 1843 lại thi rớt thêm một lần nữa. Lúc bấy giờ có Chu Cửu Trù đề xướng Thượng Đế hội, còn gọi là Tam điểm hội, Tú Toàn và người cùng làng theo ; Cửu Trù mất, Hồng Tú Toàn được tôn lên làm Giáo chủ. Nhân bị bệnh nặng hơn 30 ngày ; sau cơn bệnh kể rằng Thiên sứ đưa lên trời, Thiên phụ Thượng đế sai chém trừ yêu ma, cứu vớt người đời ; có Thiên huynh Cơ Ðốc ra sức phù trợ. Trước thời gian đó, Hồng tại Quảng Châu tìm đọc một quyển sách nhan đề Khuyến thế lương ngôn do Giáo đồ Cơ Ðốc Lương Phát Tiết soạn, nội dung dẫn dụng thánh kinh Cơ Ðốc, cùng ý nghĩa của đạo. Luôn 3 lần thi rớt, đầy phẫn khích, trong lòng ôm chí hướng khác ; lại đọc qua quan niệm mới của tôn giáo, thấy có thể lợi dụng được, bèn tạo ra việc lên trời vv… Tuy nhiên trong vòng 7 năm sau, chưa thấy Hồng có hành động thực tế nào, lại còn đi thi thêm 2 lần nữa.

Huyện Hoa vốn gần Quảng Châu, trong thời kỳ chiến tranh nha phiến các quan văn võ tại Quảng Châu sợ hãi thất thố, quân binh khiếp nhược không dám đánh ; chỉ một vài ngàn quân Anh phụng thờ Thượng đế, ra uy như chỗ không người, dày xéo duyên hải, sông Trường Giang ; triều đình nhà Thanh phải cúi đầu khuất phục. Những sự kiện nêu trên, nếu Hồng Tú Toàn không thấy, thì cũng đã từng nghe, nhận ra thời cơ tốt đã tới. Năm 1843, tức sau chiến tranh 2 năm, đọc kỹ lại Khuyến thế lương ngôn, cảm thấy những điều trong sách và cái mà Hồng hư cấu về thần thoại lên trời phù hợp ; Hồng xác nhận rằng đã nhận mệnh Thượng đế làm Thiên tử, Khuyến thế Lương ngôn là Thiên thư được Thượng đế ban cho, bèn tôn phù Bái Thượng đế hội. Ðồng chí đầu tiên của Hồng là Phùng Vân Sơn, cũng dân ngụ cư cùng làng và bạn học chung trường. Vì hủy hoại bài vị Khổng Tử, khiến hương lý không dung, họ phải rời huyện Hoa. Năm 1844 Hồng và Phùng chu du các huyện chung quanh Quảng Châu, rồi đến huyện Quý [Quigang] tỉnh Quảng Tây để tuyên truyền. Nhưng số tín đồ không đông, Hồng lại trở về huyện Hoa, riêng Phùng đến Quế Bình [Guiping, Quảng Tây] thuộc phía đông bắc huyện Quý.

Hồng sống tại nhà trong 2 năm, lo việc trước thuật tôn giáo và chính trị ; thuyết rằng người trong cõi phàm là một nhà, tất cả đàn ông là anh em, đàn bà là chị em ; Thượng đế sinh dưỡng bao bọc, ơn tự đó ra, ai trái với trời chịu tội lớn. Ngày nay “ loạn cực sẽ trị, tối cực sẽ sáng, đó là đạo trời, đêm tan dần, mặt trời sẽ mọc.” Theo đạo của Thượng đế khiến loạn thế biến thành công bình chính trực, cộng hưởng thái bình “ Trước lúc sinh Thượng đế chăm lo, lúc chết lên thiên đường, vĩnh viễn tại trời hưởng phúc.” nếu không sẽ biến thành yêu ma “ lúc sống bị quỷ trói, lúc chết bị quỷ đánh, vĩnh viễn tại ngục chịu khổ.” Lại chế ra Thập thiên điều, khuyên : kính bái Thượng đế, không kính bái tà thần, không kêu tên Thượng đế vô cớ, lễ bái trong 7 ngày, hiếu thuận cha mẹ, không giết người hại người, không gian tà dâm loạn, không trộm cướp, không nói hoang ngôn, không động lòng tham.

Luận về thời sự, thì khẳng khái ngang tàng “ Với 18 tỉnh lớn bị chế ngự bởi 3 tỉnh Mãn Châu, với 5 vạn vạn người Hoa bị chế ngự bởi vài trăm vạn giặc Thát, thực đáng sỉ, đáng nhục. Lại mỗi năm tiền bạc hàng hóa Trung Quốc biến thành khói thuốc, hút máu mỡ của dân ; một năm nặng nề như vậy, thì 200 năm triền miên, dân Trung quốc kẻ giàu biến thành nghèo, kẻ nghèo không khỏi phạm pháp ” Năm 1847, Hồng đến Quảng Châu sống khắc khổ với Giáo sĩ Mỹ I. J. Robert [La Hiếu Toàn] để đọc Cựu Ước, rồi quay lại Quảng Tây.

Lúc này Phùng Vân Sơn tại núi Tử Kinh, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây đạt thành tựu lớn. Tử Kinh là chốn núi rừng rậm rạp, nằm giữa giao lộ các huyện Quế Bình, Bình Nam [Pingnan], Vũ Tuyên [Wuxuan], Tượng Châu [Xiangzhou] ; nơi này tụ tập nhiều dân khai khẩn. Tại vùng đất thuận lợi này, trong 3 năm Phùng Vân Sơn tổ chức được lực lượng cơ bản Bái thượng đế hội. Tín đồ tại Quế Bình khoảng 2.000, các huyện phụ cận đều có đông đồ đảng. Bọn cốt cán như Dương Tú Thanh, Vi Chính, Tiêu Triều Quí, Thạch Ðạt Khai, Tần Nhật Cương, Hồ Dĩ Quang đều nằm trong đó.

Lúc Hồng Tú Toàn đến, các nơi tại Quảng Tây bừng lên, khi tan là dân, khi tụ thành giặc ; mỗi nhóm đều có Ðầu mục, hoạt động rất mạnh, truyền ngôn rằng “ Kiếp vận sắp dấy lên, Bái thượng đế sẽ được miễn ” “ Trong 10 nhà có 5, 3 hoặc 8 người theo, cũng có những người đọc sách rõ ràng thì không theo ; người theo phần nhiều thuộc nhà bần khổ.” Hồng Tú Toàn phá tượng thần, dán thiếp “ Thiên điều ” người xem đông đúc, châu huyện không dám can thiệp. Rồi “ xa gần truyền miệng, tín đồ càng đông ” dẫn đến việc sĩ tử thân hào địa phương cùng Bái Thượng đế hội xung đột. Lợi dụng địa phương này lắm loạn lạc, Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lập Bảo lương công phỉ hội [hội bảo vệ lương dân đánh thổ phỉ], luyện quân, dự trù lương thực, người theo rất đông. Tri huyện Quế Bình dụ đến và bắt được, cùng tịch thu 17 danh sách người theo, nhưng Tuần phủ Trịnh Tổ Thâm không quyết định tội, rồi tha. Từ năm 1847 đến 1848, Phùng Vân Sơn hai lần bị đoàn luyện bắt, nhưng viên Tri huyện Quế Bình ăn hối lộ, cho trả về nguyên tịch Quảng Ðông, rồi giữa đường tìm cách thoát. Hồng nhân Phùng bị bắt, đích thân về Quảng Ðông tìm cách cứu nhưng không thành, rồi cả hai đều quay trở lại Quảng Tây.

Lúc Phùng bị bắt, rồi Phùng và Hồng đi Quảng Ðông, Bái Thượng đế hội trải qua cơn dao động ; Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý giả danh Thiên phụ, Thiên huynh xuống trần để trấn tĩnh nhân tâm ; Dương là kẻ đốt than trong núi, có nhiều trí mưu ; Tiêu là nông dân tự canh, dõng cảm giỏi đánh nhau. Năm 1849, Hồng Tú Toàn từ Quảng Ðông đến, tự cho rằng biết tiếng nói của trời, gọi trời là Gia Hòa Hoa, Gia Tô là anh cả, Hồng là em thứ hai. Rồi nằm trong nhà riêng, không cho ai dòm ngó, không đưa cơm nước ; vài ngày sau ra khỏi nhà, bảo rằng đã bàn luận với Thượng Đế, nên ai cũng sợ. Lại chứng thực việc Dương và Tiêu là Thiên phụ, Thiên huynh hạ phàm, vì khi y lên trời đã từng thấy. Kể từ đó Dương trở thành phát ngôn nhân của Thượng đế, Tiêu thành phát ngôn nhân của Cơ Ðốc. Dương rất gian hùng, thỉnh thoảng mượn danh Thiên phụ hạ phàm để đề cao bản thân, quyền ngang ngửa với Hồng Tú Toàn.

3. Hồng Tú Toàn sáng lập Vương triều mới

Lúc bấy giờ tình hình Quảng Tây sôi sục, quan quân không có tháng nào không tổn quân mất tướng ; dân chúng có lời đồn rằng năm Tân Hợi [1852] “ Thanh tận, Minh phục ”. Vào năm 1852, Ðạo Quang mất, lời đồn lại càng mạnh ; Bái Thượng đế hội mê hoặc càng lớn, một người vào hội, cả nhà cùng theo. Người vào hội đưa gia tài điền sản hiến vào của công, không cho giữ riêng ; tổ chức theo lối quân sự, 5 người 1 ngũ, 5 ngũ 1 lưỡng, 4 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân ; mỗi đơn vị đặt Ngũ trưởng, Lưỡng tư mã, Tốt trưởng, Lữ soái, Sư soái, Quân soái ; trên Quân soái có Giám quân, Tổng chế, Tướng quân, Chỉ huy, Kiểm điểm, Thừa tướng, Chủ tướng, Quân sư.

Tháng 7/1850 Bái Thượng đế hội hiệu triệu các đồ đảng đến “ đoàn doanh ” tại Kim Ðiền [Jintianzhen], huyện Quế Bình. Ðể quan quân bớt chú ý, Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn trú tại Bình Nam, Dương Tú Thanh giả làm người câm điếc. Tổng bộ của Bái Thiên địa hội đặt tại nhà Vi Chính ở Kim Ðiền, đơn vị đến đầu tiên từ châu Quý, dưới quyền Thạch Ðạt Khai. Tháng 11 các địa phương đến tương đối đông, Dương Tú Thanh đầu tiên mang đồ đảng đánh thắng quan quân tại Bình Nam ; rồi phối hợp với Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn quay lại đánh Kim Ðiền, lại hoạch thắng lợi. Vào ngày 11/1/1851 [10 tháng 12 năm Ðạo Quang thứ 20] Hồng Tú Toàn đặt niên hiệu Thái bình thiên quốc, tự xưng là Thiên vương, vợ Lại thị làm Hoàng hậu ; phong cho Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Phùng Vân Sơn, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, chia giữ Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Quân chủ tướng. Quân số ước 1 vạn, đánh giỏi khoảng 2,3 ngàn, có cả nữ doanh.

Bái Thượng đế hội và Thiên địa hội có điểm tương thông, đó là phản Thanh ; nên Hồng Tú Toàn hy vọng có thể thu hút được thế lực này. Số Thiên địa hội theo Hồng không ít, nhưng số chống lại cũng nhiều. Thứ nhất họ không thích quy luật nghiêm khắc của Bái Thượng đế hội ; thứ hai là hai bên chủ trương về tôn giáo, chính trị bất đồng. Thiên địa hội thờ 5 vị tổ, Bái Thượng đế hội chỉ thờ Thượng đế, Thiên phụ, Thiên huynh. Thiên địa hội hiệu triệu khôi phục nhà Minh, Hồng Tú Toàn thì muốn tự thiết lập vương triều.

Tóm tắt về thành viên Thái bình thiên quốc, gồm kẻ sĩ bất mãn như Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn ; nông, công gặp nghịch cảnh như Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý ; Thân sĩ địa chủ hiểu chút ít thơ văn như Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, Hồ Dĩ Quang ; chỉ huy hương dõng như Tần Nhật Cương. Lớp dưới thì ngoài nông dân, công nhân ; có kẻ gánh thuê, chèo thuyền thuê, buôn bán, lính đào ngũ, du đãng, cướp bóc. Nói về quê quán thì hầu hết là Lưỡng Quảng, nhưng phần lớn là Quảng Tây ; cũng có một vài người tại tỉnh khác giữ chức trọng yếu.

Triều đình Bắc Kinh đối với tình hình tỉnh Quảng Tây không hiểu một cách rõ ràng. Khởi đầu qua tấu báo, Tuần phủ Quảng Tây chưa đề cập đến Bái Thượng đế hội. Tháng 9/1850 Thiên Ðịa hội đánh đến gần tỉnh thành Quế Lâm [Guilin], mới sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Từ Quảng Thiệu đến liệu biện, điều Hướng Vinh làm Ðề đốc Quảng Tây. Từ lo dẹp loạn tại Quảng Ðông, không rảnh để ứng phó hai bên, lại đưa Lâm Tắc Từ lên làm Khâm sai đại thần. Lâm mất trên đường đi, bèn cải dùng viên Tổng đốc Lưỡng Giang 3 Lý Tinh Trầm thay thế và cử Tổng đốc Hồ Quảng, Chu Thiên Tước, làm Tuần phủ Quảng Tây. Trong văn thư chỉ đề cập đến Thiên địa hội, mãi đến tháng 11/1850 mới bắt đầu chú ý đến Bái thượng đế hội. Vào tháng 1/1851 Hồng Tú Toàn, Dương Tú Thanh đại phá quân Quý Châu [Guizhou] tại Quế Bình, tiến đánh cửa Hoàng Giang tại Bình Nam ; Lý Tinh Trầm biết rằng đây là chốn trọng yếu, bèn tập hợp trọng binh trong vòng hơn một tháng, nhưng chỉ qua một trận, lại bị thua.

Thái bình quân có niềm tin tôn giáo, hành quân không xâm phạm vật nhỏ của dân, lâm trận chịu sự ước thúc, trở thành một đạo quân mạnh ý chí kiên cường, lại được nhân dân ủng hộ. Chiến lược “ lấy cố thủ làm chính, mài mũi nhọn, dưỡng nhuệ khí, không giao chiến với quan quân ngay ; tương trì nhiều ngày, đợi lúc quan binh lơ là, thình lình đột xuất, như dời núi triều dâng, không có gì cự nổi.” Quân Thanh thì tướng soái bất hòa, suy uỷ kèn cựa ; quân tiếp viện không được tập luyện, hiệu lệnh bất nhất, sợ co lại không dám tiến. Tuần phủ Chu Thiên Tước từng đem thế lực hai bên ra so sánh “Giặc càng đánh càng thêm nhiều, nhưng ta càng đánh càng khiếp ; giặc hung hãn nỗ lực không phải là đám ô hợp, bọn chúng kỷ luật nghiêm minh, nhưng quân ta thì không có chút kỷ luật nào, thoái dễ mà tiến rất khó.” “ Giặc dùng thuốc mê, bị thương cũng không màng, đánh đến chết thôi ”. Quan quân cho rằng “ giặc có tà thuật ” hoặc “ Giặc dụng binh toàn theo phép Tây Dương ”. Ngoài chỗ quan binh đóng quân, thôn xóm đều theo Bái Thượng đế hội ; cái gọi là tà thuật chỉ là niềm tin tôn giáo, còn cái gọi là dụng binh theo phép Tây phương chỉ là nỗi lo sợ của chiến tranh nha phiến còn sót lại. Khâm sai đại thần Lý Tinh Trầm thấy tình thế không kham nổi, tấu xin chọn thống soái và điều thêm quân, nếu không toàn cuộc không cứu vãn được.

Tháng 3/1851 quân Thái bỉnh thiên quốc từ cửa Hoàng Giang quay trở về Vũ Tuyên, Tượng Châu rồi hướng lên Quế Lâm phía bắc, bị đánh thua ; lại quay về trấn Kim Ðiền [Jintianzhen], bị quân Thanh bao vây. Tháng 8 phá vòng vây rồi theo đường tắt lên phía bắc ; ngày 25/9 chiếm được thành trì đầu tiên là châu lỵ Vĩnh An . Tại Vĩnh An dừng chân 6 tháng, củng cố lực lượng ; lúc bấy giờ khoảng hơn 3 vạn, 5.000 có khả năng chiến đấu. Phong Dương Tú Thanh làm Ðông vương, Tiêu Triều Quí Tây vương, Phùng Vân Sơn Nam vương, Vi Chính Bắc vương ; phân biệt coi đông, tây, nam, bắc các quốc ; Thạch Ðạt Khai là Dực vương, làm vây cánh cho triều đình. Thiên vương xưng Vạn tuế ; các Vương khác theo thứ tự xưng Cửu thiên tuế, Bát thiên tuế vv… Thiên vương là vạn quốc chân chúa, các vương khác dưới quyền tiết chế của Ðông vương, quyền lực không kém Thiên vương. Trong quân chia ra các trại nam, nữ ; Nữ vương, Nữ binh phần nhiều là dân bộ lạc Giao, đi chân trần, xõa tóc, mang khí giới, khỏe mạnh hơn cả đàn ông ; nam, nữ phân biệt nghiêm, không cho sống chung.

Ngoài tổ chức quân sự, vấn đề kinh tế cũng được họ chú trọng. Lúc khởi đầu kẻ gia nhập Bái Thượng đế hội, cố nhiên phải đem tài sản sung công ; sau khi cử sự, những kẻ bị ép gia nhập, ngoài việc nạp tài vật, phải đem nhà cửa thiêu hủy, để tuyệt đường lưu luyến, một lòng theo hàng quân. Khi mới chiếm Vĩnh An, Thiên vương hiệu triệu các binh tướng “ Phàm giết yêu tặc, chiếm thành, tịch thu được vàng bạc, gấm lụa, bảo vật, phải nạp vào Thiên triều thánh khố, kẻ nào trái lệnh bị xử chém.”

Về chế lịch, Thái bình thiên quốc có “ Thiên lịch ”. Lịch mỗi năm 365 ngày, tháng 31 ngày gọi là đơn nguyệt, tháng 30 ngày gọi là song nguyệt ; không có ngày tốt, xấu ; lịch này không hẳn Trung hay Tây, đây là sự kết hợp giữa Âm và Dương lịch. Lịch cũng chia 7 ngày 1 tuần, nhưng ngày Chủ nhật trước Dương lịch 1 ngày ; cũng chấp nhận can chi  để ghi ngày, nhưng trước lịch Trung Quốc 1 ngày.

Ðại biểu cho tinh thần lý luận của Thái bình thiên quốc là 3 thiên cáo văn của Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý ban bố vào tháng 6/1852 ; sở dĩ lấy tên 2 người này, vì bọn họ là đại diện cho Thiên phụ, Thiên huynh. Cáo văn có đoạn “ Thiên hạ của Thượng đế, bọn Mãn Châu là rợ Hồ yêu quái, gây độc hỗn loạn, cải biến trung châu hình tượng, y phục, ngôn ngữ ; làm nhục phụ nữ Trung Quốc, ức hiếp nam nhân ; thủy tai hạn hán không chu cấp, tham ô tước lột. Với 5 ngàn vạn dân chúng Trung Quốc lại bị chế ngự bởi 10 vạn Mãn Châu, thực đáng nhục. Hiện tại Hoàng thiên giận dữ, mệnh Thiên vương giúp quét sạch yêu nghiệt, khuyếch thanh thiên hạ, hưng phục đất nước bị trầm luân, thiết lập cương thường ; hy vọng toàn thể đồng tâm đồng lực quét sạch rợ Hồ.”

4. Quân Thái bình trên đà chiến thắng chiếm Nam Kinh rồi khai triển lên phía bắc và quay ngược về hướng tây

Thái bình thiên quốc chiếm Vĩnh An chưa được bao lâu thì bị vây ; lúc bấy giờ quân Thanh vũ khí tương đối tốt, quân Thái bình thiếu tiếp tế nên gặp khó khăn. Vào tháng 3/1852, lực lượng phu mỏ tại huyện Quý đến tiếp viện ; Hồng Tú Toàn ra lệnh đột vây, đại phá quân Thanh tại doanh Thọ Xuân, tiến chiếm Cổ Thúc Xung, Tiểu Lộ Quan, tại Quảng Tây. Thừa tướng quân Thái bình Tần Nhật Cương đóng tại Tiên Hồi Lãnh [Xianhuixiang, Quảng Tây] bị quân của Phó đô thống Ô Lan Thái đánh thua, chết hàng ngàn, bắt được Thiên đức vương Hồng Đại Toàn, sau đó quân Lan Thái bị phục kích tại rừng thua to. Lúc bấy giờ Hồng Tú Toàn theo mưu của Dương Tú Thanh dùng đường tắt Mã Lãnh [Malingzhen, Quảng Tây] tập kích tỉnh lỵ Quế Lâm, Ô Lan Thái mang bại quân về cứu, bị tử thương tại cầu Tướng Quân phía nam thành. Tháng 4, Hướng Vinh mang quân đi vòng đến tăng viện, nhờ vậy giữ được thành. Quân Thái bình đánh Quế Lâm không hạ được, bèn tiến quân lên phía bắc. Nam vương Phùng Vân Sơn từ Toàn Châu [Quanzhou, Quảng Tây] mang quân theo hướng Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], đến bến Xuy Y [Quảng Tây] bị phục kích tử thương, đó là một tổn thương lớn. Tháng 6 vào tỉnh Hồ Nam, bị binh dõng của Giang Trung Nguyên đánh thua ; bèn mang quân xuống phía nam chiếm Ðạo Châu [Daoxian, Hồ Nam], dừng lại trong 2 tháng. Tại đây đồ đảng được 2 vạn người, bèn bổ sung quân ngũ, tu tạo chiến cụ, thế quân tăng nhanh. Tháng 7 chiếm được các huyện Giang Hoa [Jianghua, Hồ Nam], Ninh Viễn [Ningyuan, Hồ Nam], Gia Hòa [Jiahe, Hồ Nam]. Tháng 8 chiếm Quế Dương [Guiyang, Hồ Nam] bị quân Giang Trung Nguyên đánh đuổi, bèn xua quân sang hướng đông chiếm Lâm Châu [Chenzhou, Hồ Nam] số người theo lên đến 3 vạn. Tháng 9, Tây vương Tiêu Triều Quí cho rằng Trường Sa đơn độc, có thể hành quân gấp chiếm lấy ; bèn đốc suất Lý Khai Phương, Lâm Phượng Tường theo hướng Trà Lăng [Chalinh, Hồ Nam], Lễ Lăng [Liling, Hồ Nam] đánh vào phía nam thành Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], bị trúng pháo chết ; đây là một tổn thất lớn của quân Thái bình. Tháng 10 Hồng, Dương mang quân chủ lực đến đánh Trường Sa, nhưng chưa hạ được. Cuối tháng 11, quân Thái bình ban đêm vượt sông Tương Giang sang phía tây, lấy được hàng 1.000 chiếc thuyền tại Ích Dương [Yiyang, Hồ Nam], bèn theo hồ Ðộng Ðình [Dongting lake, Hồ Nam] vượt sang phía đông chiếm Nhạc Dương [Yueyang, Hồ Nam]. Tại đây, chỉ trong một tuần tịch thu được 5000 chiếc thuyền, chở đầy chiến lợi phẩm ; thuyền rồng của Hồng Tú Toàn, hộ vệ bởi đại pháo, ban đêm trương 36 ngọn đèn xung quanh, các thuyền khác đều bắt chước, khiến ánh lửa sáng như ban ngày, suốt hàng chục dặm. Hai đạo quân thủy lục theo hướng xuôi dòng sông Trường Giang [Dương Tử, Changjiang] nhắm Vũ Xương [Wuchang, Hồ Bắc] tiến phát. Trước đó 5 tháng Thái bình thiên quốc đã sai người ngầm dán bố cáo tại Vũ Xương, chứng tỏ sức thâm nhập nhanh. Ngày 22/12, gặp mùa đông nước cạn, quân Thái bình dùng thuyền xiềng dây sắt, làm thành đường băng qua 2 sông, đến ngay dưới chân thành Vũ Xương, có đến 15 vạn người. Trước tiên chiếm Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc], sau đến Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] ; ngày 12/1/1853 hạ thành Vũ Xương, đây là tỉnh thành thứ nhất bị chiếm ; quân Thái bình chỉ giết quan binh, không giết dân chúng. Tại Vũ Xương đóng hơn 20 ngày, tuyên truyền dân chúng rằng những người theo Bái Thượng đế hội tài sản sung công, nam vào quân doanh, nữ vào nữ quán, những người không theo, có thể đem vàng, ngọc, tiền, gạo đến “ Tiến cống sở ”, rồi làm dân như cũ.

Sau khi Trường Sa bị vây, Từ Quảng Tấn được giao chức Thống soái ; đến lúc tỉnh Hồ Bắc bị hãm, triều đình nhà Thanh sai Tổng đốc Lưỡng Giang Lục Kiến Doanh, và Tuần phủ Hà Nam Kỳ Thiện làm Khâm sai đại thần chia phòng thủ tại các tỉnh Giang [Chiết Giang, Giang Tô], Hoán [An Huy], Dự [Hà Nam] ; nhắm ngăn quân Thái bình tiến sang phía đông và bắc. Sau khi Vũ Xương thất thủ, Từ Quảng Tấn bị cách chức điều tra, cử Hướng Vinh thay thế. Ngày 9/2/1853 quân Thái bình từ các trấn Vũ, Hán, dùng trên 1 vạn chiếc thuyền xuôi dòng tiến về phía đông, xưng rằng quân 50 vạn. Quân Thanh “ văn võ bỏ thành chạy trốn, quân lính rã ngũ trước ” ; lần lượt phá các thành Cửu Giang [Jiujang, Giang Tây], An Khánh [Anquing, An Huy], Vu Hồ [Wuhu, An Huy] dọc sông Trường Giang ; đến ngày 19/3 đánh chiếm Nam Kinh, 2 vạn quân bát kỳ bị tiêu diệt !

Kể từ khi quân Thái bình mới ra khỏi tỉnh Quảng Tây cho đến nay, trong vòng 9 tháng, hành quân trên 3.000 dặm, quét qua 5 tỉnh dọc sông Trường Giang, binh lực tăng đến 30 vạn ; tuy có kẻ bị ép, nhưng số người tình nguyện cũng không ít. Nguyên nhân chính do niềm tin tôn giáo và tuyên truyền, nhưng yếu tố kinh tế, quân sự cũng đóng vai trò quan trọng. Từ khi vào đến tỉnh Hồ Nam “ chuyên cướp phá thành thị, không những không cướp bóc tại nông thôn, lại còn lấy y phục tại thành thị chia cho các dân nghèo ” và truyền ngôn rằng sẽ miễn thuế 3 năm, nên dân quê “ mong muốn giặc đến ”. Người nghèo thường ghét hận người giàu, còn quân Thái bình đến không hại đến họ, lại còn có lợi, nên “ giặc chưa đến tâm lòng đã xa lìa, giặc đến thì trở nên vui vẻ ” tranh nhau nghênh đón. Quân Thái bình hiệu lệnh nghiêm, kỷ luật vững, không tao nhiễu ; lúc mới đến ra vẻ lễ phép với người hiền, rồi sau đó uy hiếp, nên dân đều sợ phục. Quân Thanh thì cướp bóc gian dâm, thấy giặc thì tan vỡ, nhìn ngó bồi hồi ; bởi vậy quân Thái bình ở thế chẻ tre, hướng về đâu đánh tan nơi đó.

Quân Thái bình đã có dự định chiếm Nam Kinh từ trước, khi chưa ra khỏi Quảng Tây mỗi lần đánh nhau với quan quân thường nói “ Ta sẽ đánh Giang Nam, đâu có sợ gì quan quân các ngươi.” Dương Tú Thanh từng nói “ Thượng sách ngày nay là bỏ Quảng Tây không ngó đến, tiến thẳng theo Trường Giang mà đánh các đồn ải, bỏ nơi lợi hại, lấy cho được Kim Lăng [Nam Kinh] để làm nơi căn cứ ; sau đó sai tướng đi bốn phương, phân đánh nam bắc, tuy chưa hoàn toàn thành công, thì ta cũng có được phia nam sông Hoàng Hà.” Lại xưng Kim Lăng là tiểu thiên đường, là nơi Minh Thái Tổ đánh dẹp rợ Hồ quang phục đất Hoa Hạ, có ý nghĩa lịch sử. Đầu tiên sau khi chiếm được, Hồng Tú Toàn yết kiến lăng Minh Thái Tổ, cử hành lễ điển, đọc chúc từ có đoạn “ Con cháu hèn kém là Hồng Tú Toàn thu phục được đất phía nam của tiên Đế, bèn lên ngôi tại Nam Kinh, nhất nhất tuân theo hiến chế của tổ vào năm Hồng Vũ thứ nhất.” Dương Tú Thanh chủ trương tiến chiếm Nam Kinh xong cải tên là Thiên Kinh, thực hiện kế hoạch ngăn trở vận lương nam bắc, chiếm Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], Dương Châu [Yangzhou, Giang Tô] Thiên Kinh làm 3 chân vạc. Lý do không tiếp tục tiến chiếm phía đông phía biển, vì ý muốn tiến lên phía bắc và quay lại sang phía tây, ngược theo dòng sông Trường Giang.

Vào đầu tháng 5/1853, mệnh Thiên quan phó Thừa tướng Lâm Phượng Tường, Ðịa quan chánh Thừa tướng Lý Khai Phương đánh phía bắc ; Xuân quan chánh Thừa tướng Hồ Dĩ Quang, Hạ quan chánh Thừa tướng Lại Hán Anh mang quân quay trở lại đánh phía tây. Quân bắc phạt vẫn theo chiến lược xung kích như cũ “ Quân đi theo đường tắt, đến Yên đô [Bắc Kinh] gấp, không tham đánh thành lấy đất, phí thời gian.” Ðạo quân phía tây với nhiệm vụ thu phục phía tây sông Trường Giang, khống chế phía nam sông Hoàng Hà.

Thuyết đáng tin cậy cho rằng Hồng, Dương đã phạm sai lầm vì mang quân lên phía bắc quá ít. Lực lượng của Lâm, Lý có thuyết cho rằng chỉ 3 ngàn, có thuyết 2 vạn ; nói tóm lại không đủ. Quân khởi hành từ phía bắc tỉnh An Huy, lên đến phía đông tỉnh Hà Nam [Henan], định vượt qua sông Hoàng Hà [Yellow River]. Vì quân Thanh đã dự phòng, kéo hết thuyền sang phía bắc, nên quân Thái bình bất đắc dĩ phải chuyển theo hướng tây. Sau khi đánh thành Khai Phong [Kaifeng, Hà Nam] không hạ được, phải đi tiếp đến phía tây Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam] rồi qua sông đến tỉnh Sơn Tây [Shanxi]. Tiếp tục tiến sang đông đến tỉnh Trực Lệ , đại phá quân của Tổng đốc Trực Lệ, rồi thừa thắng đến Bảo Ðịnh [Baoding] ; bấy giờ Bắc Kinh giới nghiêm, quan dân chạy trốn đến mấy vạn người. Lúc đó quân viện tại kinh kỳ đến, tập trung chống cự, nên quân Thái Bình tổn thất, phải chuyển sang phía đông, rồi lại theo Vận Hà tiến lên phía bắc. Ngày 20/12 quân Thái Bình 3 vạn người, tấn công mạnh Thiên Tân [Tianjin] ; quân Thanh phải cho tháo đê Vận Hà để ngăn, nên hai bên ở thế tương trì. Kể từ khi xuất phát tại Nam Kinh cho đến Thiên Tân [cách Bắc Kinh 240 dặm] ; quân hành 4.000 dặm, thời gian 5 tháng.

Tháng 2/1854 quân bắc phạt lương hết, thời tiết trở nên lạnh, tay chân tê cóng, chết không ít ; lại bị kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm đánh bại, đành phải rút lui phía nam. Lúc này Thiên kinh phái viện quân lên phía bắc, vào trung tuần tháng 4 đến phía tây bắc tỉnh Sơn Ðông [Shandong], cuối cùng không gặp được quân bắc phạt rút về phía nam. Vào tháng 5/1855 quân bắc phạt hoàn toàn bị tiêu diệt.

Nguyên nhân bắc phạt thất bại, thứ nhất do binh lực không đủ, lại còn do bộ binh không địch được kỵ binh của Tăng Cách Lâm Thấm trong trận chiến tại đất bằng. Thứ hai do ngôn ngữ bất đồng, người phương bắc cẩn trọng, theo quân Thái bình không nhiều. Từ đó trở về sau, quân Thái bình không vượt được sông Hoàng Hà, nhờ đó nhà Thanh giữ gìn được vùng đất căn bản.

Quân Thái bình tiến công tại Hoa bắc thất bại, cuộc chiến miền tây cũng không được đắc ý. Quân tây chinh có trên 1000 chiến thuyền, quân số cũng vượt trội quân đánh miền bắc. Tháng 8/1853 tái chiếm An Khánh, Hồ Dĩ Quang lưu lại giữ, riêng Lại Hán Anh xua quân sang phía tây vào tỉnh Giang Tây bao vây Nam Xương [Nanchang], Giang Trung Nguyên đốc quân cố thủ, quân Thái bình phản công nhưng không thắng. Tháng 9 bỏ vây Nam Xương, tiến chiếm Cửu Giang ; vào tỉnh Hồ Bắc, tái chiếm Hán Dương và Hán Khẩu, rồi rút về phía đông tỉnh. Cánh quân của Hồ Dĩ Quang tại An Khánh, vào tháng 1/1854 tiến chiếm tỉnh lỵ lâm thời An Huy tại Lô Môn [Hefei, Hợp Phì], Tuần phủ Giang Trung Nguyên thua chết, hơn 20 châu thuộc tỉnh An Huy đều bị quân Thái bình chiếm.

Tháng 2/1854 quân Thái Bình thắng lợi tại phía đông tỉnh Hồ Bắc, chiếm Hán Dương, Hán Khẩu lần thứ ba. Một mặt vây thành Vũ Xương, một mặt tiến xuống Hồ Nam chiếm Nhạc Dương, rồi vòng qua Trường Sa, đánh chiếm Tương Ðàm [Xiangtan, Hồ Nam]. Lúc này Tương quân tại Hồ Nam mới huấn luyện xong, bắt đầu ra tay ; quân Thái Bình đụng phải đối thủ mạnh ; từ nay trở về sau, hai bên tranh đoạt vùng đất phần lớn dọc theo sông Trường Giang.

5. Các nước Tây phương tiếp xúc với Thái bình thiên quốc

Từ khi các nước Tây phương vào tranh giành buôn bán tại Trung Quốc, thì sự biến loạn tại Trung Quốc không còn là vấn đề nội bộ của nước này. Các giáo sĩ và thương nhân ngoại quốc nhận thấy Thái bình thiên quốc là thế lực mới trong công cuộc vận động cách mạng, đối với tôn giáo này họ cảm thấy hứng thú ; nếu Trung Quốc là một quốc gia theo đạo Cơ Ðốc thì sẽ có ích lợi trong việc buôn bán và truyền giáo ; báo chí của họ đều biểu đồng tình. Về các quan chức ngoại giao muốn nhân lúc này, thu nhiều quyền lợi từ triều Thanh hoặc quân Thái bình.

Sau khi quân Thái bình chiếm Nam Kinh, Tổng đốc Thượng Hải kiêm Công sứ Anh, S.J. Bonham [Văn Hàn], phái viên Thông dịch Thomas Taylor Meadows [Mật Ðịch Lạc] theo đường Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] tìm cách liên lạc ngoại giao. Ngày 27/4/1853 S.J Boham đến Nam Kinh, sai Hạm trưởng E. G. Fishbourne [Phí Sĩ Ban] đưa thư cho quan chức Thái bình thiên quốc, nội dung “ đến đây có việc muốn thương lượng, chứ không phải giúp quân Thanh đánh nhau.” Thomas Taylor Meadows lên thành, gặp Bắc vương Vi Chính, Dực vương Thạch Ðạt Khai ; nói rõ nước Anh đứng trung lập và muốn biết lập trường đối ngoại của quân Thái bình có định tấn công Thượng Hải hoặc tiếp sứ Anh hay không. Bắc vương đề cao Thiên vương và quyền lực tôn giáo, nếu người Anh giúp quân Thanh cũng không đáng sợ. Lại bảo Thiên vương nói Trung Quốc có chân chúa thì cũng là chân chúa của vạn nước, từ nay trở về sau hai bên cùng an tâm, trở thành bạn tốt. Ngày hôm sau S.J. Bonham nhận được “ dụ ” phúc đáp của Ðông vương Dương Tú Thanh với lời lẽ kiêu ngạo, bèn đem tất cả văn kiện trả lại, kèm theo Nam Kinh điều ước để biểu thị quyền lợi nước Anh tại Trung Quốc. Lại gửi chiếu hội thanh minh nước Anh không bang trợ cho quan quân Mãn Châu thuyền máy, lại không chuẩn cho mướn thương thuyền người Anh “ đối với quý Quốc vương và Mãn Châu đối địch, nước Anh tình nguyện không can dự vào hai bên ”. Sau đó bảo rằng “ Nghe tin quân của quý Quốc vương định đến Tô [Suzhou, Chiết Giang], Tùng [Songjiang], sau đó đến Thượng Hải. Lúc đó quý Quốc vương định cư xử với nước Anh như thế nào, xin nguyện nghe biết ”. Qua những lời này, biết được nước Anh rất chú ý đến hành động của Thái bình thiên quốc đối với Thượng Hải. Ðông vương phúc đáp rằng “ Thiên hạ vốn một nhà, bốn biển là anh em ” “ Các ngươi là người xa xôi nguyện đến làm phiên thuộc, thiên hạ hoan lạc ; Thiên phụ, Thiên huynh cũng hoan lạc. Ðã có lòng trung quy thuận, giáng chỉ cho Ðầu mục các ngươi cùng các huynh, đệ có thể đến Thiên kinh ; hoặc hiệu lực, hoặc thông thương, ra vào cửa thành, đều không cấm chỉ, đó là ý trời. Lại cấp cho vài loại Thánh thư, muốn hiểu chân đạo có thể dùng để tu tập.” S.J. Bonham dùng lời lẽ nghiêm khắc bác bỏ “ Thư đến lời lẽ thiếu rõ ràng không hiểu nổi. Trung Quốc đã chuẩn cho chúng tôi thông thương, thì vô luận người nào làm tổn thương sự buôn bán, nước tôi chỉ biết dùng binh.” Rồi khi thuyền nước Anh theo hướng đông ra khỏi Trấn Giang, lại nhận được thư của viên tướng Thái bình Lại Ðại Cương, nội dung nguyện đối xử hữu hảo, khuyên người Anh đừng trợ giúp quân Thanh, đừng buôn nha phiến. S.J. Bonham đáp lời, xác định đứng trung lập, nhưng không đề cập đến vấn đề nha phiến. La Ðại Cương là người Lưỡng Quảng, được cho là “ người có khả năng trong đám giặc ”, ứng đối đắc thể hơn Ðông vương và Bắc vương.

Qua lần đi này S.J. Bonham thấy được thế lực quân Thái bình lớn mạnh, tất sẽ thành công, trong tương lai nước Anh có thể thay đổi chính sách ; trước mắt nên giữ thế trung lập. Riêng Thomas Taylor Meadows có nhiều cảm tình với quân Thái bình, cho rằng nếu như họ thành công thì không những có thể khuếch trương việc truyền giáo và giao thương, riêng Trung Quốc cũng có thể bước lên con đường tiến bộ. Tuần phủ Giang Tô [Jiangsu] đối với việc S.J. Bonham đến Nam Kinh, tỏ vẻ hết sức không an lòng, bèn gửi chiếu hội cho Lãnh sự Anh, Mỹ “ Nghĩ rằng hai nước thông thương hòa hảo đã lâu, nay việc buôn bán bị quấy nhiễu, mậu dịch ngưng trệ, vả lại giặc phỉ cấm nha phiến rất nghiêm, gặp một người nước tôi hút thuốc là bị sát hại ; hy vọng sẽ mang thuyền máy vào sông Trường giang đánh dẹp giúp.”

Vào tháng 6/1854 người kế nhiệm S.J. Bonham là John Bowring [Bao Lệnh] sai viên Thông dịch Walter H. Medhurst Jr. [Mạch Hoa Ðà] đến Nam Kinh quan sát. Nhà đương cục Thái bình thiên quốc tuy vẫn nói rằng “ Vạn quốc thông thương, trong thiên hạ đều là anh em ”, nhưng vẫn giữ thái độ muốn “ Thiên hạ ngoại quốc đến đầu hàng ”, nếu không là yêu ma. Tháng 1/1855 John Bowring thấy rằng thế lực quân Thái bình không thể khinh thường, vả lại lúc bấy giờ nước Anh đang có tranh chấp quân sự với Nga không rảnh tại Viễn Đông, nên bố cáo rằng nước Anh nghiêm giữ trung lập.

Người Pháp theo Thiên chúa giáo, đối với tân giáo của Thái bình thiên quốc lúc đầu có cảm tình tốt. Tháng 12/1853, Sứ giả Pháp Bố Nhĩ Bố Long đến Nam Kinh, sai người vào thành trước, gặp vị thừa tướng họ Lại [Hán Anh?], hai bên tỏ vẻ hy vọng hòa hảo. Vài ngày sau Bố Nhĩ Bố Long gặp Ðỉnh thiên hầu Tần Nhật Cương, biểu thị trung lập và lưu tâm đến Thiên chúa giáo tại Hoa. Chuyến đi của viên Sứ giả có ấn tượng tốt, thừa nhận quân Thái bình kỷ luật nghiêm, trật tự tại Nam Kinh yên ổn.

Tháng 5/1853 Giáo sĩ người Mỹ, I. J. Robert [La Hiếu Toàn], từng quen biết với Hồng Tú Toàn, từ Quảng Ðông lên Thượng Hải, rồi trên đường đi Nam Kinh, nhưng đường ngăn trở nên không đến được. Lại có Giáo sĩ Mỹ, Charles Taylor [Ðái Tác Sĩ], gặp La Ðại Cương tại Trấn Giang, hai bên có cảm tình. Số đông thương nhân Mỹ đều muốn Thái bình thiên quốc thành công, Sứ giả Mỹ tại Hoa, Humphrey Marshall [Mã Sa Lợi], cũng cho rằng triều Thanh sắp sụp đổ, có ý thừa nhận Thái bình thiên quốc.

Chính phủ Mỹ ban huấn lệnh cho người kế nhiệm Humphrey Marshall là Robert McLane [Mạch Liên] rằng : đối với nội loạn tại Trung Quốc nghiêm giữ chính sách trung lập ; nếu nhà Thanh không chịu sửa đổi điều ước, sẽ đàm phán với Thái bình thiên quốc. Vào tháng 5/1854 Robert McLane đến Thượng Hải, ngày 27 đáp quân hạm đến Nam Kinh, ngày 28 Hạm trưởng F. L. Buchanan [Bố Gia Nam] gửi chiếu hội xưng rằng Toàn quyền nước Mỹ muốn chiếu hội với Thừa tướng, Nguyên soái Thái bình thiên quốc, cùng xưng ngày hôm sau người Mỹ muốn thăm tháp chùa Báo Ân tại cửa phía nam thành. Ðầu tiên một viên Kiểm điểm Thái bình thiên quốc gửi “ trát dụ ” đòi phải cho biết ý tại sao muốn đến, và phải tuân thủ quy định, mới được vào xem. Kế đó có “ trát dụ ” của hai vị Thừa tướng, mệnh “ Tuân chiếu lễ tiết, bẩm tấu Ðông vương. Thiên vương là chân chúa của vạn quốc, chuẩn cho hàng năm đến cống.” Ngày 30/5 F. L. Buchanan phúc đáp, trách “ Lời phúc đáp không có tình hữu nghị, lại không tôn trọng nước Mỹ, nên không thể không tạm ngưng chiếu hội.” Robert McLane cho rằng quân Thái bình kiêu mạn, nếu như thành công, cũng không có ích cho người nước ngoài ; ông ta báo cáo với bộ Ngoại giao rằng Thái bình thiên quốc không có năng lực thống trị ; muốn cải biến chính sách tại Trung Quốc, nên duy trì áp lực triều đình nhà Thanh trong vòng trật tự, nhắm khuếch trương thương vụ và giữ quyền lợi điều ước. Robert McLane báo cho Tổng đốc Lưỡng Giang, Di Lương, biết rằng nếu như hứa sửa điều ước về việc thông thương trên sông Trường Giang thì sẽ giúp dẹp loạn, nhưng bị triều đình Bắc Kinh bác.

Qua việc tiếp xúc với 3 nước Anh, Pháp, Mỹ ; thấy được đường lối đối ngoại của Thái bình thiên quốc đầy vụng về, tự cao, thiếu hiểu biết ; còn quá tệ hơn cả triều Thanh trước thời chiến tranh nha phiến. Tuy thuyết giảng “ Thiên hạ một nhà, bốn biển là anh em ” nhưng chỉ thừa nhận độc tôn địa vị và tôn giáo của Thiên vương.




1. Ngự trị bởi tín ngưỡng

Ðối với Thái bình thiên quốc, tôn giáo ảnh hưởng không gì lớn bằng. Hồng Tú Toàn tự xưng được Thiên phụ thượng đế phong làm chân chúa, địa vị và quyền lực do trời ban. Nhưng tôn giáo của Hồng không phải chân chính Cơ Ðốc Tây phương, có thể gọi đây là một loại Thượng đế giáo, hoặc “ Hồng giáo ”. Từ năm 24 tuổi trở về trước, sách đọc của Hồng chỉ là kinh, sử, những tín ngưỡng nghe biết là Phật, Ðạo, Thần tiên ; kiến thức sơ đẳng về Cơ Ðốc giáo cùng quan niệm về Thượng đế chỉ lấy từ quyển sách Khuyến thế lương ngôn cạn hẹp. Từ những điều lượm lặt được, Hồng tự lý luận ; lợi dụng tôn giáo để đạt mục đích chính trị. Nói tóm lại Hồng không phải là tín đồ của tôn giáo nào, Hồng là Giáo chủ.

Lúc đầu Hồng cho rằng Thiên phụ Thượng đế có hai con, con trưởng là Thiên huynh Gia Tô, con thứ là Hồng Tú Toàn. Thiên huynh Gia Tô tại Tây phương, xả thân cứu đời, nối theo đại đạo. Tại Trung quốc sau đời Tần, mở đường cho thần tiên quỷ quái ; Mãn Thanh vào chiếm cứ “ dụ người tin quỷ thần càng sâu, thì yêu ma tác quái càng dữ ”, nên Thiên phụ sai con thứ, Hồng Tú Toàn, xuống trần, cứu vớt kẻ trầm luân. Từ năm 1848 trở về sau lại xưng Thiên phụ có con thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ 6 là Phùng Vân Sơn, Dương Tú Thanh, Vi Chính, Thạch Ðạt Khai ; riêng Tiêu Triều Quý lấy em gái Hồng Tú Toàn, thì được gọi là Thiên tế, tức con rể trời. Dương Tú Thanh được cho là hóa thân của Thiên phụ xuống thế gian để chuộc bệnh, nên còn gọi là “ Thục bệnh vương ”. Hồng còn có sáng kiến dùng các hiện tượng của tạo hóa : gió, mưa, mây, sấm, chớp, sương v v… để ban phong ; như : Dương là Phong sư, Tiêu là Vũ sư, Phùng là Vân sư, Vi là Lôi sư, Thạch là Ðiện sư, Tần Nhật Cương là Sương sư, Hồ Dĩ Quang là Lộ sư.

Thượng đế giáo quy điều nghiêm khắc dị thường, nghi thức chi tiết vụn vặt. Kẻ bái Thượng đế phải hướng Thượng đế hối tội, học thuộc Thập thiên điều ; vi phạm bị xử tội chết. Ngày thường sáng tối tụng niệm, mỗi bữa ăn cảm tạ Thượng đế ; gặp tai nạn, bệnh tật, sinh nhật, cuối tháng, cưới xin, xây bếp, làm nhà, động thổ, đều cầu đảo tế cáo. Cứ 7 ngày lễ bái một lần, trước đó 1 ngày đánh phèng la cao hô “ Ngày mai lễ bái, mọi người tuân kính, không được lười chậm ”. Lần đầu không đến bị đóng gông, đánh 1.000 roi ; lần thứ 2 bị xử chém. Trong khi lễ bái, tụng Thượng đế ân đức, đọc thơ xưng tán Thiên vương, Ðông vương, cho đến Dực vương ; sau đó đọc Thánh kinh, Thiên điều, một lời xướng trăm lời họa ; lại tụng tấu chương hối tội, sau đó cao hô “ tận giết ma quỷ ”. Cứ 25 nhà có một lễ bái đường, khi hành quân, chọn phòng ốc khoáng đãng làm chỗ lễ bái. Các nơi thờ thần, các bài vị, thần chủ đều bị thiêu hủy. Việc giáo dục hoàn toàn tôn giáo hóa, các sách cho sĩ tử học như Tam thiên tự, Ấu học thi, Cựu ước, Tân ước đều nặng màu tôn giáo, văn nghĩa thông tục ; khi quân Thanh tịch thu được, phải dùng xe bò chở, chất hàng đống, chứng tỏ đã in ra rất nhiều.

Tư tưởng Nho gia đối với giáo lý của Thượng đế giáo không tương dung. Giáo lý kể rằng Hồng Tú Toàn lúc lên trời, Thượng đế từng bảo “ Khổng tử di truyền sách thư, phần lớn sai lầm… dạy người việc hồ đồ ”. Gia Tô cũng bảo sách này làm hỏng người. Khổng Khâu chạy trốn, bị Thiên sứ bắt về trói, dùng roi đánh đau, không cho phép xuống trần.

Năm 1853 tuyên bố “ Phàm các sách Khổng, Mạnh, Bách gia, yêu thư tà thuyết, phải đốt sạch, không được buôn bán tàng trữ ”. Các sách có đóng dấu ấn “ cái tỷ ” của Thái bình thiên quốc mới được lưu hành “ Thế gian có sách không tâu lên, sách không đóng dấu cái tỷ mà đọc, đều bị tội ”. Lại thiết lập “ San thư nha ”, đem những lời “ yêu thoại ” trong Tứ thư, Ngũ Kinh, để Thiên vương ngự phê cải chính.

Ðối với phần tử trí thức, Thái bình thiên quốc ra sức tranh thủ ; quân đến nơi, dán bảng chiêu hiền “ Tự cống sở trường… Lượng tài lục dụng ”. Năm 1853 mở khoa thi, cũng có Tú tài, Cử nhân, Tiến sĩ ; đề thi thuộc loại như, soạn “ Thiên mệnh chiếu chỉ thư ”. Nhưng đối với quan lại, Nho sinh bị bắt thì đối xử lăng nhục ngược đãi “ Hoặc giam cấm đến chết, hoặc chia cho các quán để chép các tấu chương, cáo dụ, cáo thị, hoặc soạn sách riêng cho các nhà.”

2. Binh dân hợp nhất

Lúc mới cử sự, Thái bình thiên quốc định quân chế, được ghi lại trong sách Thái bình quân mục. Ðơn vị lớn nhất là quân, đặt Quân soái ; dưới Quân soái có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng, Lưỡng tư mã, Ngũ trưởng. Sau khi vào tỉnh Hồ Nam, đặt thêm Thổ doanh, Thủy doanh ; Thổ doanh là đơn vị đặc biệt chuyên đào địa đạo đánh thành, Thủy doanh đảm đang thủy chiến cùng chuyên chở hàng hóa. Lại có các doanh lo về kỹ năng chế tạo hậu cần, không trực tiếp tác chiến như Mộc doanh, Kim doanh, Chức doanh, Hài doanh ; gọi chung là Tượng doanh. Lúc đầu đặt Nữ doanh, mỗi doanh 2500 người, nữ binh vào khoảng ¼ số quân ; sau khi hành quân đến sông Trường Giang, vì phụ nữ vùng này yếu đuối không tòng quân tác chiến được, nên lập Nữ quán. Lại còn lập quân thiếu niên gọi là Ðồng tử quân, lâm trận dõng cảm, tín ngưỡng một chiều, trở thành cán bộ trung kiên.

Sau khi chiếm Nam Kinh, tổng kê toàn thể quân binh nam, nữ hơn 30 vạn. Phân chia thành các quân, do Quân soái chỉ huy, phụ tá có Tổng chế và Giám quân ; mỗi quân 12.500 người, gồm 5 sư. Mỗi sư gồm 2.500 người, đứng đầu là Sư soái, chia thành 5 lữ ; mỗi lữ 500 người, đứng đầu là Lữ soái, chia thành 5 tốt ; mỗi tốt 100 người, đứng đầu là Tốt trưởng, chia thành 4 Lưỡng tư mã ; mỗi Lưỡng tư mã chia thành 5 ngũ, mỗi ngũ 5 người, đứng đầu là Ngũ trưởng.

Về trận pháp có 4, gồm : Khiên chế pháp, chủ tiến thoái có trật tự, không loạn trận ; Bàng giải trận, chủ biến hóa như chân cua, xòe ra nhiều ít do nhu cầu ; Bách điểu trận, trận này ứng dụng tại đất bằng, chủ tụ tán như chim bầy, lúc chia nhỏ ra để dụ địch, lúc tập trung lại để đánh ; Phục địa trận, chủ chuyển bại thành thắng, bằng cách giả thua rút đến nơi có địa hình thích hợp để phục kích, rồi theo hiệu lệnh cờ mai phục, đợi địch đến thì xông ra.

Về quân luật, huấn luyện, được ôn tập thường xuyên ; điểm chính là nghiêm đội ngũ, thưởng phạt phân minh, không xâm phạm cho đến các vật nhỏ, không được tao nhiễu dân chúng. Trời tạnh thao luyện binh sĩ, trời mưa thì học tập Thiên thư “ Người người đều hiểu lòng trời, vĩnh tuân chân đạo ; nếu gặp yêu ma đến, một tiếng trống cất lên, tập trung nghe lệnh, hăng hái hướng tiền, một lòng một dạ ”.

Sách Tặc tình hối toản cũng khen quy chế quân Thái bình, chiến thuật tốt, quân kỷ nghiêm “ Nghịch tặc hoang đản bạo ngược, duy quân chế có phép tắc ”. Lại có nhận xét “ Giặc lớn mạnh mau, nhờ vào hành quân có phép tắc, kỷ luật nghiêm. Kẻ chiến trận thất lợi đi đến chỗ bại, trái lệnh, tiêu dùng riêng tài vật ; nặng tức xử chém, nhẹ thì trách giáng, chứ không tha thứ. Có công thì phá lệ thăng nhanh ; mới buổi sáng là tên lính, buổi chiều đã thăng làm tướng ngụy.”

Thái bình thiên quốc chủ trương binh dân hợp nhất “ Mỗi nhà trang bị nhung phục, người người cầm khí giới ”. “ Có báo động thì Thủ lãnh dùng làm lính, giết địch bắt giặc ; vô sự thì Thủ lãnh điều đi làm nông, cày ruộng sản xuất ”. Trên lý thuyết theo quy chế “ 5 người thành 1 ngũ, 4 ngũ 1 lưỡng, 5 lưỡng 1 tốt, 5 tốt 1 lữ, 5 lữ 1 sư, 5 sư 1 quân ; tạo nên quân lữ, hoặc dùng canh tác ruộng đất…”, nhưng thực tế thì chưa thi hành được triệt để, phần lớn nguồn binh lực đều cung cấp bởi cưỡng bách uy hiếp.

3. Chế độ quan lại và chính sự

Chính thể của Thái bình thiên quốc được quân sự hóa, đại lược chia thành : triều nội quan, quân trung quan, thủ thổ quan, hương quan ; từ trung ương đến địa phương đều theo quân hàm. Triều nội quan tại trung ương, trong đó có Thiên vương cung, Ðông điện tức Ðông vương phủ, Bắc điện tức Bắc vương phủ, Dực điện tức Dực vương phủ ; Ðông điện quy mô lớn hơn cả Thiên vương cung. Quân trung quan có Tổng chế, Giám quân, Quân soái trở xuống. Thủ thổ quan tức địa phương quân, cũng có riêng Tổng chế, Giám quân ; mỗi quận đặt Tổng chế, các châu đặt Giám quân. Hương quan đặt viên chức từ Quân soái cho đến Lưỡng tư mã, căn cứ nhân khẩu nhiều ít, phần lớn dùng người địa phương. Ngoài việc quân sự Hương quan còn phụ trách các vấn đề tôn giáo, giáo dục, tư pháp, chính trị, kinh tế. Mỗi ngày Lưỡng tư mã phụ trách dạy học các trẻ em trong 25 nhà, vào ngày Chủ nhật trai gái đến học giáo lý, tụng niệm Thượng đế. Cứ 7 tuần có Sư soái, Lữ soái, Tốt trưởng thay phiên đến giảng thánh kinh, và kiểm soát mọi việc ; nếu địa phương không giải quyết được thì đào đạt lên trên.

Sau khi định đô tại Nam Kinh, Thiên vương Hồng Tú Toàn sống kiêu xa trong cung, ít xuất hiện, gặp đại khánh mới thiết triều hội ; Ðông vương thường đến triều kiến lãnh chiếu chỉ. Việc chính trị do các Hầu, Thừa tướng bàn định ổn thỏa bẩm lên Dực vương, Dực vương xét có thể thi hành được bèn thay mặt Ðông vương soạn cáo dụ, rồi gửi sang Ðông vương xin dấu ấn, gửi sang Bắc vương ghi vào sổ bạ. Ðiều gì cũng sử dụng giấy tờ, nên bị ứ đọng “ Lệnh cấm thì lập khoa điều, quân vụ đều dựa vào văn cáo, khí mạch không thông, trở thành tê liệt ”.

Ngoài ra lãnh tụ cao cấp của Thái bình thiên quốc sống xa hoa. Thiên vương dùng dinh cũ của Tổng đốc Lưỡng Giang làm cung điện, cho phá các nhà nhỏ xung quanh, dùng hàng vạn nhân công trai, gái xây cất trong vòng nửa năm trời, chu vi hơn chục dặm, tường cao mấy trượng, trong ngoài hai lớp, trang sức bằng màu vàng, kim thạch huy hoàng ; tại các cửa trang sức bằng lụa đoạn màu vàng, thay đổi hàng tháng. Các phủ từ Ðông vương trở xuống đều tranh nhau trang hoàng tráng lệ, y phục xa hoa, đẳng cấp nghiêm nhặt. Cấp thấp như Lưỡng tư mã cũng có 4 phu kiệu ; riêng Ðông vương mỗi lần ra ngoài, hộ tống có hàng trăm người, các quan viên to nhỏ đều tránh ra khỏi đường đi, nếu không kịp phải quỳ bái.

Thái bình thiên quốc dùng tôn giáo để trị nước, nên địa vị của Ðông vương Dương Tú Thanh, là hóa thân của Thiên phụ, lại cao hơn một bực. Bởi vậy những tấu chương khẩn yếu chưa có dấu ấn của Ðông vương thì Thiên vương không duyệt ; tuy Dực vương, Bắc vương cũng không được gửi thẳng đến Thiên vương ; ngoại trừ Ðông vương không ai được gặp Thiên vương.

4. Thánh khố và điền mẫu chế độ

Cùng hưởng chung là chính sách căn bản của Thái bình thiên quốc ; “ nhắm cho thiên hạ cùng hưởng đại phúc của Thiên phụ Hoàng đế, không có ai không được no ấm ”. Nhu cầu hàng ngày của quân dân đều do chính phủ trù tính cung cấp, với lý tưởng một xã hội giàu không có tài sản riêng, khống chế được bè đảng, ngăn tuyệt tham ô. Ðể thực hiện lý tưởng này, Thánh khố và điền mẫu chế độ được đặt ra.

Thánh khố là kho quản lý mọi tài vật, kể từ thời khởi sự tại Kim Ðiền [Jintianzhen] Quảng Tây, đã được đặt ra. Sau đó đánh chiếm các nơi, tịch thu được vàng, bạc, y phục đều nạp vào Thánh khố. Trên đường hành quân, nông dân các nơi giao nạp lúa gạo, chỉ để lại mỗi năm 1 thạch cho người lớn, 5 đấu cho trẻ nhỏ. Sau khi đến Nam Kinh, chia ra Thánh khố quán, và Thánh lương quán ; đặt Tổng điển Thánh khố quán và Tổng điển Thánh lương quán ; Thánh khố quán chủ yếu giữ tiền, Thánh lương quán chủ yếu giữ gạo. Lại còn có kho cho các nhu yếu phẩm đặc biệt như dầu, muối ; hoặc kho cho các nghề chuyên môn như “ tượng doanh ”. Các quan chức lớn nhỏ không có lương hàng tháng, được phát gạo, dầu, muối, tiền mua rau theo quy chế ; cứ 7 ngày do Ðiển quan cấp ; riêng thịt thì chỉ phát cho từng lớp trên, từ Thiên vương đến Tổng chế. Còn đối với nhân gian thì nguyên tắc tương đồng, nhưng phải phối hợp với điền mẫu chế độ.

Sách Thiên triều điền mẫu chế độ ban hành, bao quát kinh tế, giáo dục, tiến cử, khảo hạch ; nhưng chỉ mới hình thành trên lý thuyết, chưa kịp thực thi. Nguyên tắc của điền mẫu chế độ gồm : Thứ nhất, đất đai của công, chiếu theo sản lượng chia ruộng đất thành 9 hạng. Thứ hai, không luận trai gái, căn cứ nhân khẩu mà nhận ruộng đất ; trong 9 hạng, nhận một nửa tốt một nửa xấu. Thứ ba, lấy chỗ được mùa bù cho chỗ mất mùa “ Rưộng đất trong thiên hạ, người trong thiên hạ cùng cày ; nơi này không no đủ thì mang nơi khác đến…”. Thứ tư, cứ 25 nhà đặt một quốc khố, trừ số lúa gạo ăn đủ đến mùa sau, kỳ dư sung vào quốc khố. Lễ cưới, lễ đầy tháng, đều theo quy chế lấy từ quốc khố. Thứ năm, tự cung tự cấp ; mỗi nhà lo trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, nuôi gà, hết mùa lúa thì làm thêm đồ gốm, đồ gỗ.

Thánh khố chế độ từng được nghiêm khắc thi hành. Thời gian tiến quân từ Quảng Tây đến Hồ Nam, thì đối tượng phải nạp là những phú hộ tại nông thôn ; lúc đến sông Trường Giang thì đối tượng chính là nhà giàu tại thành thị ; sau khi đến Nam Kinh phạm vi kiểm soát rộng, thì chú ý đến toàn cõi “lấy nhà giàu trong thiên hạ làm kho, lấy những nhà chứa lúa làm kho lương, tùy nơi mà thu cấp ”. Chính sách “ tát cạn ao để bắt cá ” được thi thố, chứng tỏ hữu hiệu trong đoản kỳ, nhưng quyết không thể là đường lối kinh tế tốt đẹp có thể tồn tại lâu dài.

Thực thi chế độ điền mẫu cần có thời gian ổn định để điều tra hộ khẩu, điền địa ; không thể thực hiện cấp tốc trong thời binh đao. Bởi vậy quan chức địa phương đành theo cách thu tô, chỉ khác trước là người nông dân thay vì nạp lúa cho chủ ruộng, thì nạp vào Thánh khố.

5. Ðịa vị phụ nữ

Thái bình thiên quốc đối xử với phụ nữ khác xưa. Ðứng về phương diện tôn giáo quan niệm nam đều anh em, nữ đều chị em. Về phương diện chính trị phụ nữ cũng có thể làm quan, phần lớn làm việc tại Thiên vương cung hoặc các Vương phủ “ đều mặc áo gấm, ăn đồ ngon, ra vào rung chiêng trống cưỡi ngựa, che lọng vàng, thị tỳ theo hầu mấy người.” Về kinh tế, được cấp ruộng đất như nam giới. Về phương diện tục lễ, hôn nhân không luận tiền bạc, cấm đa thê, không phải bó chân, không được phép làm con hát, cấm tà dâm ; trai gái không hỗn tạp, phụ nữ đều ở riêng trong nữ quán.

Tuy nhiên đem thực tế so sánh với những lý thuyết nêu trên thì có những chỗ mâu thuẫn ; phụ nữ vẫn chưa được chân chính giải phóng bình đẳng. Thứ nhất, tuy nam nữ phân biệt, nhưng đối với các Vương thì vợ chồng sống chung, còn có nhiều tỳ thiếp ; Chấp sự, Nữ quan có hàng trăm, hàng ngàn. Thứ hai, phụ nữ đối với nam giới vẫn phải phục tòng ; nam lo việc bên ngoài, nữ lo việc trong nhà, kính chồng như kính trời, kính chúa, như vậy mới được hưởng vinh hoa phú quý, được lên trời ; quan niệm này đối với luân lý truyền thống cũng không khác mấy.

Nói một cách tổng quát, ý thức phong kiến của Thái bình thiên quốc còn nặng hơn các Vương triều trước. Cũng giống như lệ cũ, tước Vương con được thế tập ; nhưng ngoài ra con các chức Thừa tướng, Kiểm điểm, Chỉ huy, Tướng quân cũng đều được thế tập. Các cấp phân biệt phục sức, dân gian không được dùng màu hồng, màu vàng. Chức vị cao thấp, trên dưới xưng hô một cách rõ ràng chi tiết ; đối với kẻ địch khắc chữ “ yêu ” vào nón ; các vua chúa đời trước trong lịch sử đổi thành Hầu, riêng Hồng Tú Toàn thì xưng là Thiên vương. Một số chữ viết, tên người, tên đất cũng thay đổi. Các tục bất lương như đánh bạc, đồng bóng nhất luật cấm chỉ. Không được hút ngửi mua bán thuốc phiện, yên thảo ; không tuân bị xử chém “ Thuốc phiện Tây phương là thứ yêu ma di hại người đời, hút vào thành nghiện, bệnh vào xương cốt, không có thuốc cứu…”

Hồng Tú Toàn thi hành thay đổi lớn tại Trung Quốc, muốn cải tạo Trung Quốc và thậm chí cả lịch sử thế giới. Hồng muốn phá trừ mọi tín ngưỡng có sẵn, thiết lập tín ngưỡng riêng ; khống chế để sử dụng mọi tài nguyên nhân lực vật lực. Hồng ôm tư tưởng đại đồng không tưởng, tự cho mình độc quyền, “ bất cận nhân tình ”, chỉ cầu cho được việc.

III. Sự đối kháng của thế lực truyền thống[1853-1860]



1. Tăng Quốc Phiên lãnh đạo :

Tăng Quốc Phiên [1811-1872] người đất Tương Hương [Xiangxiang], tỉnh Hồ Nam ; lớn hơn Hồng Tú Toàn 3 tuổi, cả hai đều xuất thân từ thành phần học trò nhà nông. Ðường công danh thời tuổi trẻ của Tăng thuận lợi hơn Hồng Tú Toàn, năm 28 tuổi đậu Tiến sĩ, giữ chức Hàn lâm, năm 34 tuổi thăng chức Thị lang bộ Lễ. Bình sinh chuyên nghiên cứu về nghĩa lý và đường thực dụng kinh bang tế thế ; ủng hộ nền đạo thống, danh giáo. Tăng cũng bất mãn với thời cuộc, mong có sự cải cách.

Vào giai đoạn vua Ðạo Quang mất, Hàm Phong lên ngôi [1851], loạn nổi lên tại Hồ Nam, Quảng Tây ; Cử nhân Giang Trung Nguyên lập dân quân Sở dõng, giúp quan quân dẹp loạn tại Tân Ninh [Xinning, Hồ Nam], năm 1852 đánh quân Thái Bình tại vùng Tương Ðàm [Xiangtang, Hồ Nam], rồi giúp bảo vệ tỉnh thành Trường Sa [Changsa, Hồ Nam]. Tại Tương Hương, Sinh viên La Trạch Nam noi theo, lập Tương dõng. Ðầu năm 1853 quân Thái Bình tiến vào Hồ Bắc, ngọn lửa bùng lên như bó đuốc ; lúc này Tăng Quốc Phiên cư tang mẹ tại quê nhà Tương Hương, được triều đình chính thức giao chức giúp đỡ cho Tuần phủ Hồ Nam tổ chức đoàn luyện, sưu tra thổ phỉ, trợ giúp quân chính qui không đủ sức. Tăng ưu tư cho tình thế, thấy Hồ Bắc không giữ được quan hệ rất lớn, mới bắt đầu đến Trường Sa để trù hoạch.

Sau khi bàn luận thống nhất, Tăng tổ chức một đạo tân quân, đối kháng với quân Thái bình ; sự việc được vua Hàm Phong phê đúng và khuyến khích “ đem hết sức lo liệu, để phòng tiễu hữu hiệu.” Tân quân không những răn đe những mối tệ trạng bạc nhược của quân Lục kỳ 1, mà lại còn noi theo tinh thần đoàn kết kiên cường của quân Thái Bình. Tăng Quốc Phiên nhận định “ ngày hôm nay muốn diệt giặc, thì chư tướng phải nhất tâm, vạn người một bụng ”, “ hít thở cùng nhau, đau ngứa liên quan, nhảy vào lửa đồng hành, nhảy qua nước sôi cùng tiến ; thắng thì bưng chén rượu nhường công, bại sẽ liều mình cùng cứu. Giặc có lời thề không bỏ tử thi đồng đảng, ta cũng thề không bỏ tử thi đồng đảng ; hãy huyết chiến một hai lần, để đổi mới cách nhìn của dân chúng.” Tân quân còn được gọi là Tương quân, có những đặc điểm sau đây :

– Về quân lính chọn thanh niên nông thôn, thực thà chất phác ; không chọn bọn vô lại tại thành thị. Tướng thì chọn những Nho sinh trung nghĩa hiểu quân sự, chí đồng đạo hợp.

– Biên chế : 10 người thành một đội, 8 đội thành một tiêu, 4 tiêu thành một doanh, họp vài doanh hoặc 10 doanh thành một Thống lãnh. Toàn quân từ trên xuống dưới, nếu không là bà con quen biết, thì cũng là người cùng làng xóm “ tướng soái cùng đem hết khả năng, binh tướng cùng tập luyện ”

– Tập luyện : quân lính “ khổ công tinh luyện ”, hàng ngày tập tành trận pháp, tác chiến ; tinh thần kỹ luật cũng được chú ý. Lại soạn các bài ca để học, như : “ Chớ đào tẩu ”, “ Cần một lòng ”, “ Thao luyện vũ nghệ ” ; nhắm phấn khích tướng sĩ, trung nghĩa một lòng.

– Ðãi ngộ : Tăng cho rằng lương hướng không đủ, không thể tạo được đạo quân liêm khiết, hết lòng. Nên qui định Tương quân mỗi người lính lãnh lương 4 lượng 2 tiền, so với quân Lục kỳ lương cao gấp bội ; nguồn lương do từ quyên góp, sau đó là tiền phụ thu từ thuế hàng hóa.

Cả hai phe đều cố tranh thủ dân tâm, quân Thái bình lúc khởi sự truyền bá Phụng Thiên thảo Hồ hịch 2, thì Tương quân cũng soạn Thảo Việt phỉ hịch  để thuyết minh lập trường.

Mở đầu hịch văn đả kích quân Thái bình tàn ác, trong nội bộ phân biệt đối xử ; người gốc Quảng Tây thì được đãi ngộ, các tỉnh khác thì bị khinh rẽ đọa đày “ Thuyền bè không kể lớn nhỏ, nhân dân không kể giàu nghèo đều vị cướp sạch, trai gái bị bắt ; bọn giặc Quảng Tây thì được tôn vinh, dân Lưỡng Hồ 4, Tam giang 5 thì bị bức hiếp.” Tiếp đến thống kích quân Thái bình phá hoại luân lý trật tự “ Trung Quốc mấy ngàn năm lễ nghĩa nhân luân, thi thư điển tắc, một sáng quét sạch… Khổng Tử, Mạnh Tử của ta phải thống khóc nơi cửu tuyền, phàm kẻ đọc sách biết chữ há có thể buông tay áo ngồi nhìn ? ”. Lại đả kích quân Thái bình phá hủy điện thờ thần, Khổng Tử, và các bực anh hùng như Quan Công, Nhạc Phi. Cuối cùng thân minh sứ mệnh của Tương quân là cứu dân bảo vệ đạo, giúp vua, phục hồi nhân luân, báo thù cho sinh linh, làm nguôi lửa giận của thần minh ; hy vọng trung nghĩa nhân dân, cộng đồng phấn khởi ; những kể bị hiếp bị bắt, trở về với nẻo chính.

2. Tương quân khởi sự

Tương quân của Tăng Quốc Phiên lúc khởi đầu lấy Tương dõng của Sinh viên La Trạch Nam làm cơ sở, lại thêm bộ phận chiêu mộ thêm từ Hồ Bắc ; tất cả khoảng 4 000 người. Tháng 9/1853 Tăng di chuyển quân đến Hoành Dương [Hengyang, Hồ Nam] để dẹp giặc tại phương nam và lo chế tạo thuyền. Rút kinh nghiệm về lực lượng Thái bình xua binh dọc theo sông Trường Giang, thuyền to nhỏ có đến hàng vạn chiếc, các châu ấp gần sông không cần đánh cũng lấy được ; riêng quân Thanh không có thuyền, không có phương tiện truy kích, đành chịu bó tay. Bởi vậy Tăng Quốc Phiên bắt đầu lo việc chế tạo thuyền pháo ; quân binh từ tỉnh Hồ Nam, thợ mộc lấy từ Quảng Tây, súng pháo chuyển từ Quảng Ðông, phần lớn là vũ khí Tây dương. Thuyền pháo sau này là yếu tố quan trọng giúp Tương quân đoạt quyền khống chế sông Trường Giang, ngăn trở quân Thái bình giao thông bằng đường thuỷ và đánh chiếm các thành trì dọc hai bên bờ sông.

Vào tháng 1/1854, thất thủ Hợp Phì [Hefei, An Huy] Tuần phủ Giang Trung Nguyên tử trận. Tháng 2 Tổng đốc Hồ Quảng Ngô Văn Dung thua chết, quân Thái bình chiếm Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc], Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] lần thứ 3, cùng vây đánh Vũ Xương [Wugang, Hồ Bắc]. Lúc này thuỷ sư của Tương quân đã thành, thuyền lớn nhỏ hơn 300 chiếc, lính thuỷ hơn 5000 người, hợp với lục quân binh dõng hơn 15 000 người, với 500 cỗ pháo, cùng thuyền tiếp tế gạo, dầu, muối của dân. Ngày 25/2 xuất chinh, toàn quân tiền lương 8 vạn lượng, do các tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông, Giang Tây, Tứ Xuyên [Sichuan] cung ứng. Bắt đầu dằng co với quân Thái bình tại phía bắc tỉnh Hồ Nam, quân bộ thua tại Nhạc Dương [Yueyang,Hồ Nam], quân thuỷ thua tại Tĩnh Cảng phía bắc Trường Sa [Changsa, Hồ Nam] ; nhưng có một đạo quân đại thắng tại Tương Ðàm [Xiangtan, Hồ Nam], không những lòng quân được hưng phấn, mà Trường sa miễn bị giáp công. Sau khi chấn chỉnh và biên chế, tháng 7 xuất kích lần thứ 2, tảo thanh xong tỉnh Hồ Nam, Lúc này thành Vũ Xương đã bị tái chiếm 6 tháng ; vào tháng 10/1854 Tăng Quốc Phiên đích thân mang quân thuỷ lục từ Nhạc Dương tiến sang đông, bọn Dương Tái Phúc đốc suất thuỷ quân, La Trạch Nam đốc xuất lục quân khắc phục được Vũ Xương, tịch thu hàng ngàn chiếc thuyền, lại chiếm luôn các thành Hán Dương, Hán Khẩu gần đó ; thắng lợi lớn được Thanh đình đánh giá cao. Vào các tháng 11, 12, lại thắng tiếp tại trấn Ðiền Gia, núi Bình Bích tại phía đông tỉnh Hồ Bắc ; thuỷ quân tiến đến Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], quân Thái bình bị tổn thất rất lớn.

Vào đầu năm 1855, quân Thái bình dưới quyền Dực vương Thạch Ðạt Khai tăng viện cho miền tây, Tương quân bị tổn thất. Hán Dương, Hán Khẩu, Vũ Xương lại không giữ được ; từ Vũ Xương đến Thiên Kinh [Nam Kinh] nằm trong tay quân Thái bình. Tăng Quốc Phiên rút về Nam Xương [Nanchang, Giang Tây], lực lượng Tương quân đầu, đuôi không tiếp xúc với nhau được ; quyết định cho Tuần phủ Hồ Bắc Hồ Lâm Dực và La Trạch Nam chiếm lại Vũ Hán nhưng không thành công. Thạch Đạt Khai đa mưu, chủ trương xây dựng cơ sở tại nông thôn, làm nguồn cung cấp nhân lực và lương thực ; năm 1856, hợp với quân Thiên địa hội từ Quảng Tây đến, cùng với Bắc vương Vi Chính liên tiếp chiếm hơn 50 huyện, 8 phủ tại Giang Tây, Nam Xương cơ hồ không giữ được.

3. Nội biến tại Thiên Kinh

Thái bình thiên quốc định đô tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] không lâu, Khâm sai đại thần Hướng Vinh theo bén gót truy kích, đồn trú tại vùng ngoại ô đông nam thành, gọi là đại doanh Giang Nam ; kiêm chỉ huy quân tại Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô], che chở cho vùng đất Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] nhiều lúa gạo ; lại có đạo quân đồn trú tại vùng ngoại ô phía bắc Dương Châu, làm bình phong cho vùng sản xuất muối, tại duyên hải sông Hoài [Huaihe river]. Mùa đông năm 1853, quân Thái bình rút ra khỏi Dương Châu [Yangzhou, Giang Tô], nhưng vẫn đóng tại Qua Châu [Guazhouzhen, Giang Tô], nơi cửa Vận Hà. Tuy đánh Thiên Kinh không thành công, nhưng thanh thế đại doanh Giang Nam vẫn mạnh, là mối lo ngay tại nách vai của quân Thái bình. Năm 1856, Dương Tú Thanh thừa lúc quân Thái bình thắng tại phía tây sông Trường Giang, bèn mang quân đánh Trấn Giang và Dương Châu, tấn công mạnh vào Ðại doanh Giang Nam, Hướng Vinh thua, tử trận ; Thiên kinh được giải vây ; thượng lưu, hạ lưu sông Trường Giang chỗ nào cũng thắng lợi. Giặc Niệm 6 tại phía bắc An Huy cũng bùng lên, cướp phá tại lưu vực sông Hoài và sông Trường Giang. Trong lúc này tại Thiên Kinh [Nam Kinh] xẩy ra nội biến, tàn sát lẫn nhau, nhờ vậy Tương quân có cơ hội nghỉ ngơi dưỡng sức.

Do bởi Dương Tú Thanh giả thác Thiên phụ xuống cõi trần, nắm mọi quyền lực về tôn giáo, quân sự, chính trị ; tự tiện chuyên chế, coi Hồng Tú Toàn như phế vật, thường lăng nhục la mắng. Ðối với Vi Chính, Thạch Ðạt Khai, Tần Nhật Cương thì chỉ tay sai khiến ; Vi Chính, Tần Nhật Cương thường bị phạt đánh trượng ; mối oán kết sâu không chỉ một ngày ; nhưng giặc mạnh còn nằm bên hông, nên chưa lộ ra hành động. Trước đó vào năm 1855, tác gỉả Tặc tình hối toản cũng đã đề cập đến việc này, cho rằng “ Dương Tú Thanh với tâm gian giảo, đưa Hồng Tú Toàn lên hư vị, nhưng thực sự nắm quyền lớn, bắt chước những gian thần đời trước, sẽ giết Hồng để nắm chức.” Lại bảo “ giặc họ Dương và Vi Chính nghi kỵ, chẳng bao lâu sẽ manh tâm nuốt nhau.”

Sau khi Thiên kinh được giải vây, lại chiến thắng tại miền thượng du sông Trường Giang ; lúc này dã tâm của Dương Tú Thanh bộc lộ càng mạnh, giả thác Thiên phụ xuống trần, bức bách Thiên vương, từ Cửu thiên tuế tự phong thành Vạn tuế! Vào tháng 9/1856, Vi Chính, Tần Nhật Cương trong một hành động chớp nhoáng, như sấm không kịp bịt lỗ tai, giết Dương Tú Thanh.

Nguyên Vi Chính bị thua, từ Giang Tây trở về, bị Dương Tú Thanh quở trách không cho vào thành ; sau đó Vi tiếp tục xin, nên được chấp nhận. Vi âm mưu với Hồng Tú Toàn, Tần Nhật Cương trước ; rồi một hôm đến phủ Đông vương yết kiến Dương Tú Thanh, quỳ xuống tung hô vạn tuế, Tú Thanh lưu lại ăn yến ; trong bữa tiệc bất thình lình dùng dao giấu trong người đâm chết Dương Tú Thanh, rồi tuyên bố “ Đông vương mưu phản, ta nhận mệnh Thiên vương giết nó.” Sau đó cho đóng cửa thành, truy lùng đồ đảng của Đông vương ; nội bộ xẩy ra cuộc hỗn chiến một tháng trời, đồ đảng Đông vương vẫn còn trốn tránh. Lại thị vợ của Hồng tú Toàn bảo rằng “ Đảng giặc không giết hết sẽ lưu hậu họa ”, nhân bàn mưu với Tú Toàn giả phạt Vi Chính tội đánh trượng 7 rồi kêu gọi đồ đảng Tây vương đến xem, lúc đến nơi bèn cho giết sạch ; tổng kết phe Dương Tú Thanh bị giết đến 2 vạn. Ðây là cuộc nội biến thứ nhất tại Thiên kinh.

Tháng 10, Thạch Ðạt khai từ Hồ Bắc trở về Nam Kinh gấp, trách Vi Chính giết quá nhiều. Vi Chính, đã lỡ ra tay đành phải tiếp tục, định đem những người khác ý ra thanh trừng. Thạch Ðạt Khai phải dùng giây thừng leo qua thành chạy trốn ; đó là nội biến lần thứ hai.

Từ đó Vi Chính không phân biệt trắng đen, giết người không ngớt, treo giải thưởng cho ai bắt được Thạch Ðạt Khai và giết mẹ, vợ, con trai, con gái của Đạt Khai. Tháng 11, Thạch Ðạt Khai từ phía tây sông Trường Giang mang quân trở về, cùng lúc Hồng Tú Toàn hợp các quan văn võ tại Thiên kinh giết được Vi Chính, Tần Nhật Cương ; đó là nội biến thứ ba.

Vào tháng 12, Hồ Lâm Dực thừa cơ khắc phục Vũ Hán, bình định Hồ Bắc ; Tương quân ổn định miền hậu phương, lương hướng quân giới thu thập đầy đủ, thương bệnh binh được bảo dưỡng.

Thạch Ðạt Khai là nhân vật kiết xuất về chính trị trong quân Thái bình. Tăng Quốc Phiên mấy lần nhận xét, “ y tối hung hãn, quỷ quyệt ” “ dùng ngụy trá để khiến người, giả nhân nghĩa lôi cuốn dân.” Tả Tông Ðường cũng cho rằng “ iảo hoạt hơn người, vốn được lòng bọn giặc ; tài trí hơn cả đồng bọn. Xem cách làm của y, có phần cố kết được lòng người, cầu nhân tài, không xu phụ vào lý thuyết tà giáo ; là một tông chúa của giặc, đáng cho ta úy kỵ.” Sau khi Vi Chính chết, Thạch Ðạt Khai quản lý chính sự, kiêm thi hành công thủ, trọng dụng các tướng lãnh thanh niên như Trần Ngọc Thành, cùng Lý Tú Thành, một tài năng mới lộ ra. Lại liên kết với giặc Niệm tại phía bắc sông Trường Giang, ổn định được cục diện Thái bình thiên quốc. Nhưng Hồng Tú Toàn thì đã quá no bởi sự ức hiếp của Dương Tú Thanh, Vi Chính, nên không tin người ngoài ; chỉ tin dùng những anh ruột không tài năng là bọn Hồng Nhân Hữu, Hồng Nhân Ðạt.

Vào tháng 6/1857, Thạch Ðạt Khai bị anh em Nhân Hữu, Nhân Ðạt nghi kỵ, cảm thấy lo lắng không yên tâm. Đồ đảng Trương Toại khuyên rằng “ Vương được lòng dân, tại sao lại chịu ở dưới tay người, nếu trung nguyên không dễ mưu, sao không đến Tứ Xuyên, lập thế đỉnh vạc như Lưu Bị trước kia ? ”. Đạt Khai theo, mưu với Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, nhưng hai người không theo ; bèn đến An Khánh, rồi chuyển đến Giang Tây để phát triển riêng. Thực tế đã ly khai khỏi Hồng Tú Toàn, tự dựng riêng lá cờ ; đó là biến cố thứ tư của Thái bình thiên quốc.

Sau khi Thạch Ðạt Khai bỏ đi, Trấn Giang không giữ được, anh em họ Hồng chuyên quyền phóng túng, khiến nhân tâm không phục, chán nản. Tăng Quốc Phiên cho rằng trong vòng một năm có thể đánh chiếm được Nam Kinh, nhưng thực tế lực lượng Hồng Tú Toàn còn kéo dài được vì những lý do sau đây : Thứ nhất, do lời đồn rằng quân Thanh đối với những người gốc Quảng Tây nếu bắt được thì không tha, nên bọn này chỉ biết tử chiến, đánh đến cùng. Thứ hai, do Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành trung dũng thiện chiến, nên uy thế quân Thái bình lại được phấn chấn. Thứ ba, triều đình nhà Thanh vẫn còn phân biệt Hán, Mãn ; đối với Tăng Quốc Phiên chưa hoàn toàn tin, không giao cho toàn quyền, nên Tương quân chưa vươn lên được.

4. Quân Thái bình thiên quốc phấn chấn trở lại

Năm 1858, đại quân Giang Nam của Khâm sai đại thần Hòa Xuân cùng Trương Ngọc Lương lại đến sát Thiên kinh, xây đại doanh đối bờ tại Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô], Thiên kinh lại một lần nữa bị khốn. Phía thượng du, Tương quân do Lý Tục Tân chỉ huy đánh chặn Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], nơi yết hầu trên sông Trường Giang ; các thành tại tỉnh Giang Tây phần nhiều bị Tương quân chiếm. Lý Tục Tân thừa thắng tiến quân phía bắc An Huy, bị liên quân Trần Ngọc Thành và Lý Tú Thành đánh kẹp, trước hết phá trại lớn tại phía bắc Trường Giang, sau đó đánh bại Tương quân tại trấn Tam Hà [Sanhezhen, An Huy], khiến lực lượng của Lý Tục Tân bị sụp đổ ; đây là bước ngoặt, quân Thái bình từ thế suy đồi gặt hái được chiến thắng lớn. Sau đó Trần Ngọc Thành đảm đương thượng du sông Trường Giang, giữ An Khánh [Anquing, An Huy], chế ngự Tương quân xuống phía đông ; riêng Lý Tú Thành bảo vệ Thiên kinh chống lại doanh lớn Giang Nam.

Năm 1859, một người anh em của Thiên vương là Hồng Nhân Can từ Hương Cảng đến, được trọng dụng, phong tước Can vương, nắm quân cơ ; Trần, Lý cũng được phong tước Anh vương, Trung vương. Hồng Nhân Can tương đối có trí thức, định sách lược cải cách, trước tác Tư chính tân biên, luận về phương sách giáo dục chính trị, đại thể thế giới ; chủ trương thu thái chế độ mới cùng khoa học kỹ thuật. Hồng kiến nghị tập trung quyền về một mối, cải cách phong tục, thực hành theo Tây phương với những điều cụ thể như: đặt thư tín quán [bưu chính], tân văn quán [báo chí], y viện, thị trấn công sở, hương binh [cảnh sát], đặt đường sắt, ngân hàng, công nghệ, khai khoáng sản. Ngoại trừ tân văn quán, các điều khác đều được Thiên vương chấp nhận, nhưng chỉ mới bàn suông trên giấy tờ mà thôi.

Năm sau [1860] có một người tốt nghiệp từ Mỹ tên là Dung Hoành  kiến nghị cải thiện tổ chức quân đội, thiết lập học hiệu lục quân, hải quân ; trường thực nghiệp, định chế độ giáo dục, thiết lập chính phủ lương hảo, dùng nhân tài để cố vấn, mở ngân hàng ; nhưng cũng không thấy thực hành. Dung Hoành lưu tại Thiên kinh hơn một tháng trời, nhận thấy Hồng Tú Toàn không có năng lực để xây dựng một nước Trung Quốc mới.

Lúc này quân Thanh chia làm 2 tập đoàn lớn : thứ nhất là đại doanh Giang Nam tại hạ du sông Trường Giang do Hòa Xuân và Trương Quốc Lương chỉ huy ; thứ hai chủ yếu là Tương quân, dưới quyền Tăng Quốc Phiên và Hồ Lâm Dực, tại miền thượng du. Ðại doanh Giang Nam tại Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô] xưng là 5 vạn, nhưng sự thực chỉ nửa số, dùng hào lớn để vây Thiên Kinh, tự cho rằng sớm muộn công lớn có thể thành ; nhưng thực chất thì “ tướng kiêu binh lười, suốt ngày say sưa không để ý đến giặc, hoặc ưa chuyện trai gái, hoặc quyến luyến vợ con, hoặc tụ họp ca hát, hoặc cờ bạc nghiền hút. Cứ 45 ngày phát lương tháng 1 lần, nên quân lính nguyền rủa mong cho giặc đến.”

Trung vương Lý Tú Thành, Can vương Hồng Nhân Can muốn phá vây khốn, bèn sử dụng kỵ binh cơ động đánh phía bắc An Huy rồi xuống Giang Tô, Chiết Giang phía nam, nhắm bọc sau lưng đại doanh Giang Nam, cắt đường tiếp tế, chia binh lực. Lúc bấy giờ quân Thái bình đã tấn chiếm được các thành xung quanh tại Cao Lương [Gulou, Giang Tô], Cú Dung [Rujong, Giang Tô] ; hoặc giả quan quân chiếm đột kích Phiêu Dương [Liyang, Giang Tô]. Tháng 3/1860, Lý Tú Thành tập kích Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], rồi ngày đêm hành quân phía tây phối hợp với Trần Ngọc Thành đánh mạnh vào đại doanh Giang Nam. Qua 10 ngày kịch chiến, vào đầu tháng 5 quân của Hòa Xuân, Trương Quốc Lương bị đánh tan, Thiên kinh được giải vây ; từ đó trở về sau trong vòng 2 năm, không có dấu vết quân Thanh ngoài thành.

Trong vòng 7 năm, trọng yếu chiến lược của quân Thái bình chủ trương thế công tại thượng du sông Trường Giang, thủ tại hạ du ; về hạ du sông Trường Giang, chưa bao giờ vượt quá Ðan Dương [Dan yang, Giang Tô]. Sau lần thứ hai giải vây Thiên kinh, bèn quyết định đánh Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Hàng Châu [Hangzhou, Chiết Giang], Thượng Hải [Shanghai] ; sau đó liệu biện thuyền máy, ngược dòng Trường Giang đánh phía tây. Vào ngày 19/5 Lý Tú Thành đuổi dài sang phía đông, Hòa Xuân và Trương Quốc Lương thua chết, nhân dân tranh giết quân Thanh để đón. Lúc này ngoại trừ vùng chu vi Thượng Hải, Trấn Giang [Zhenjiang, Giang Tô] ; phần còn lại đều bị quân Thái bình đánh cuốn chiếu, chiếm sạch. Vào tháng 8 đánh Thượng Hải không hạ được, đồng thời tại miền thượng du chiến sự gấp, quân Thái bình phải phân đánh từ hai tuyến.

5. Tăng Quốc Phiên thống lãnh miền đông nam

Sau khi đoạt lại Vũ Hán vào tháng 12/1856, Tương quân không thừa lúc nội bộ quân Thái Bình biến loạn, mang toàn lực tiến thẳng ; lý do không hẳn lực bất tòng tâm, nhưng do Mãn Thanh thiếu tín nhiệm người Hán. Thời Tương quân đầu tiên chiến thắng tại tỉnh Hồ Bắc, có viên Ðại thần tâu rằng Tăng Quốc Phiên chỉ là một dân thường quật khởi, người theo có đến hành vạn ; sợ không phải là điều phúc cho Vương triều, vua Hàm Phong nghe qua biến sắc. Bởi vậy trách nhiệm của Tăng được giao rất nặng, nhưng quyền lực bị hạn chế, chỉ có hư hàm “ Khâm sai Binh bộ hữu thị lang ”.

Vào tháng 3/1857 nhân cha mất, xin nghĩ để chịu tang, trong lòng đã có ý muốn rút lui. Tháng 7 xin từ chức, trình bày mấy năm qua làm việc gặp nhiều khó khăn : thứ nhất, các quan chức dưới quyền lập công phải trình lên để xin chức, chứ không được bổ ngay chức ; thứ hai, việc trù hoạch điều động nằm trong tay Tổng đốc, Tuần phủ, đối với các viên chức này Tương quân chỉ là khách ; thứ ba, lệnh phụng mệnh chỉ huy quân không được minh bạch, có lời dị nghị, ấn tín thường bị thay đổi, nên các châu huyện nghi ngờ cho là giả tạo.

Tăng Quốc Phiên nghỉ tại nhà hơn một năm, vào năm 1858 Thạch Ðạt Khai mang quân tiến về phía đông, mới được gọi trở lại chức. Trước hết mệnh tăng viện Chiết Giang, rồi lại mệnh đến Tứ Xuyên ; cuối cùng mệnh tăng cường quân An Huy, khiên chế quân Thái bình, để cho Hòa Xuân [người Mãn] một mình lập công đánh Thiên Kinh. Trong vòng 3 tháng, giữa các năm 1859-1860, Tương quân của Tăng Quốc Phiên giao tranh với quân Thái bình của Trần Ngọc Thành tại vùng phụ cận An Huy, lúc này chỉ nhận được sự trợ giúp của Tuần phủ Hồ Bắc Hồ Lâm Dực.

Lúc đại doanh Giang Nam bị đánh, chính là lúc Tăng Quốc Phiên, Hồ Lâm Dực, và Tả Tông Ðường họp bàn tại Túc Tùng [Susong, An Huy]. Tả Tông Ðường nói : “ Ý trời muốn thay đổi chăng ? Ðại doanh Giang Nam tướng kém quân mệt làm sao đương thuỷ giặc ! ”. Hồ Lâm Dực nói “ Bĩ cực thái lai ” và liệu tính rằng thời đã đến, triều đình sẽ trọng dụng Tương quân. Ðến lúc Tô Châu thất thủ, triều Thanh xem lại trong nước, chỉ có Tương quân tướng lãnh có khả năng, quân lính mạnh ; ngoại trừ lực lượng này thì không biết dựa vào đâu. Nên tháng 6/1860 mệnh Tăng Quốc Phiên quyền Tổng đốc Lưỡng Giang, hai tháng sau thăng thực thụ, lại giao chức Khâm sai đại thần biện lý quân vụ Giang Nam, tiết chế các quân thuỷ bộ hai bên nam, bắc sông Trường Giang. Kể từ đó, Tăng được “ phá lệ thăng tướng, thêm binh ” Tương quân danh xứng với thực, thay thế quân Lục kỳ.

Nhắm tấn công vùng đông nam để tương lai thu phục Nam Kinh, Tăng Quốc Phiên di chuyển đến Kỳ Môn [Qimen, An Huy] và lưu quân công kích An Khánh. Chẳng bao lâu quân Anh, Pháp đánh Bắc Kinh, triều đình gọi tăng viện, đối với Tăng có phần nan giải. Trước đó Tăng tự nguyện đi, nhưng do thế bắt buộc chứ không phải phát xuất tự lòng thành, Tăng từng nói với em, Tăng Quốc Thuyên, rằng “ viện trợ Bắc Kinh không cần nhiều quân, Hồ Lâm Dực hoặc ta, sẽ có một người đi ; đến chốn hành tại để làm rõ nghĩa vua tôi, tròn chức phận của tướng soái ; còn ổn thỏa hay không, thì chỉ biết nghe lệnh mà thôi.” Lại nói với Hồ Lâm Dực rằng : “ Trong thiên hạ có lý và thế, giữ 3 tỉnh Giang Tây , Lưỡng Hồ là thuộc về thế ; chức vụ chúng ta trước mắt cầu khỏi vi phạm vào thế, nhưng cũng không phản lại lý ”. Xem qua lời nói, Tăng nặng lòng củng cố lưu vực sông Trường Giang để sớm dẹp quân Thái bình. 

IV. Nhà Thanh giành được ngoại viện, Tăng Quốc Phiên trù hoạch chiến đấu


1. Triệu chứng nước Anh thay đổi chính sách

Sau khi Thái Bình Thiên Quốc định đô tại Nam Kinh [Nanjing, Giang Tô] ; các nước Anh, Pháp, Mỹ vẫn thừa nhận triều đình Bắc Kinh [Beijing] ; họ hy vọng giành được sự nhượng bộ từ triều đình này, nên tiếp tục duy trì. Ðối với họ, Hồng Tú Toàn luôn luôn tự coi là Thiên vương, “ chân chúa của vạn nước ”, nếu thắng cũng không dễ cư xử.

Từ năm 1856 đến 1858, giới lãnh đạo Anh, đứng đầu phe Tây phương, cho rằng chẳng bao lâu quân Thái Bình sẽ thua, nên càng gấp giành quyền lợi từ Bắc Kinh. Qua điều ước Thiên Tân [Tianjin], lòng mong muốn của các nước được thỏa mãn, kiên định mối quan hệ giữa họ với Bắc Kinh ; vấn đề từ đó trở đi, là làm sao thực thi mọi khoản trong điều ước. Sau khi chương trình thông thương được ký kết tại Thượng Hải [Shanghai, Giang Tô] vào tháng 11/1858, Công sứ Lord Elgin cấp tốc điều quân hạm ngược sông Trường giang [Changjiang], để khảo sát cảng khẩu, chiếu theo điều ước Thiên Tân dự định mở. Khi quân hạm qua Nam Kinh, An Khánh [Anqing, An Huy] ; bị quân Thái Bình pháo kích. Sau đó quân Thái Bình gửi thư có ý xin lỗi ; chiếu chỉ của Thiên vương gọi Lord Elgin là “ Tây dương phiên đệ ”, hoan nghênh đến, sẽ đãi theo lễ. Khi Lord Elgin từ Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc] xuôi dòng, chủ tướng quân Thái Bình tại An Khánh ân cần xin lỗi vì sự lầm lỡ. Thống đốc thủy quân Thái Bình trên sông Trường Giang yêu cầu nhường cho súng đạn Tây dương, nói rằng hai bên tình như anh em. Khi đến Nam Kinh, Lý Xuân Phát, Phó thủ tướng quân Thái Bình khoản đãi rượu những viên chức Anh do Lord Elgin sai đến như Thomas Wade [Uy Thỏa Mã], H.N. Lay [Lý Thái Quốc] ; và căn dặn từ nay trở về sau khi thuyền Anh đi qua, xin báo trước để mang quân hộ tống.

Lord Elgin rất ác cảm với quân Thái Bình, cho rằng chẳng bao lâu sẽ bại. H.N. Lay nói với Quế Lương tại Thượng Hải rằng “ Bọn này thực vô kỷ luật, hành động như đạo tặc. Miệng thì nói thuộc Gia Tô giáo, nhưng đem nhưng điều Gia Tô ra hỏi thì đáp không đúng.” Quân Thái Bình biểu thị thiện cảm với Anh, vì thấy quân Anh mạnh nên không thể không làm như vậy. Tháng 5/1860 quân Thái Bình đánh chiếm các đại doanh tại Giang Nam, đuổi dài sang phía đông ; Công sứ Anh, Pháp lập tức tuyên bố bảo vệ Thượng Hải. Sau khi Trung vương Lý Tú Thành chiếm cứ Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], bèn gửi thư cho sứ Anh trình bày việc tất yếu phải lấy Thượng Hải, Tùng Giang [Songjiang, Giang Tô] ; muốn đến thương lượng để giữ hòa hảo. Kế tiếp lại gửi thư khuyên đừng giúp quân Thanh, để khỏi tổn thương hòa khí ; nhưng đều không có hồi âm. Sau đó Can vương Hồng Nhân Can vốn có giao tình với người nước ngoài đến Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], cùng với Lý Tú Thành gửi thư mời Giáo sĩ Ngãi Ước Sắt đến gặp ; viên Giáo sĩ thỉnh ý viên Công sứ Frederick W. A. Bruce [Bốc Lỗ Tư] thì viên này cho biết lập trường của Anh không nghiêng về bên nào.

Vào tháng 6, Tuần phủ Giang Tô, Tiết Hoán, cùng hàng thương khuyến khích tổ chức Dương thương đội do người Mỹ tên là F. T.Ward [Hoa Nhĩ] chỉ huy. F. T. Ward, một tay mạo hiểm về quân sự ; nhân nước Trung Quốc rối ren, là nơi có nhiều cơ hội đối với y ; nhỏ thì có thể dựa vào lửa chiến tranh để cướp bóc, lớn thì tạo lập chính quyền. Y cùng các bạn đồng hương chiêu mộ được khoảng 200 quân, gồm lính ngoại quốc đào ngũ, thủy thủ, cùng những tay vong mệnh ; lương hướng do quan đặc trách thương vụ tại Thượng Hải cung cấp. Tháng 7, chiếm đoạt Tùng Giang, cướp được nhiều, lại được thưởng 3 vạn lượng bạc, danh lợi kiêm thu ; bèn tiếp tục tiến công quân Thái Bình, bị Lý Tú Thành đánh bại.

Giáo sĩ Ngãi Ước Sắt đến Tô Châu đem những lời của Công sứ Frederick chuyển cho Hồng Nhân Can và Lý Tú Thành, cả hai đều tin Anh đứng trung lập. Gặp lúc Anh, Pháp điều binh lên Thiên Tân, lưu binh tại Thượng Hải không nhiều, lại vừa đánh thắng Dương thương đội, nên tin rằng một tiếng trống cất lên có thể chiến thắng, bèn mang quân tiến thẳng. Frederick chuyển lời cảnh cáo rằng quân Anh, Pháp hiện trú đóng tại huyện thành và Thượng Hải, nếu xông vào sẽ đánh trả lại. Lý Tú Thành thanh minh cùng Công sứ Anh, Mỹ, Pháp rằng không quấy nhiễu người ngoại quốc ; vào ngày 18/8 bắt đầu đánh thành, ngày 21 bị liên quân Anh Pháp đánh bại ; sự kiện này cũng tình cờ trùng ngày với liên quân Anh, Pháp chiến thắng quân Thanh tại Ðại Cô [Dagu, Thiên Tân]. Ðây là lần đầu tiên quân Thái Bình giao tranh với Tây dương, chứng tỏ thái độ Anh, Pháp đối với quân Thái Bình đã chuyển biến một cách cụ thể.

Tháng 2/1861 Harry Parkes đến Nam Kinh. Ngày 1/3 cùng Hạm trưởng Aplin [Nhã Linh] nói với đại diện quân Thái Bình, Mông Thời Ung và Chương vương Lâm Thiệu Chương rằng nước Anh có quyền thông thương trên sông Trường Giang, nay qua lại, nếu tuân theo pháp lệnh của Thái bình thiên quốc thì không được trở nhiễu ; quân Thái Bình đánh Hán Khẩu, Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây], nếu như không xâm phạm tính mệnh tài sản của người Anh, thì quân hạm Anh đậu tại đấy cũng không gây khó khăn. Ðược Thiên vương đồng ý, xuống chiếu tuyên bố rằng phàm những ai chưa giúp “ yêu quái ” (Mãn Thanh) đều được khoan miễn, thương nhân ngoại quốc coi như huynh đệ, mọi việc do Tổng lý La Hiếu Toàn thu xếp ; lại trả về những lính đào ngũ người Anh. Tháng 5 cũng gửi cho Tư lệnh hải quân Mỹ Commodore Stribling [Tư Bách Linh] chiếu thư giống như vậy.

Ngày 22/3 khi Harry Parkes từ Hán Khẩu trở về đông, qua Hoàng Châu [Huangzhou, Hồ Bắc] cảnh cáo Anh vương Trần Ngọc Thành đừng đánh Hán Khẩu [Hankou, Hồ Bắc], Hán Dương [Hanyang, Hồ Bắc] ; lập luận này hiển nhiên trái với cam kết trước kia. Ngày 28 Ðề đốc James Hope [Hà Bá] sai Hạm trưởng Aplin báo cho quân Thái Bình rằng không được tiến binh cách Thượng Hải dưới 100 dặm, ngược lại Anh sẽ không cho quân Thanh từ Thượng Hải đánh quân Thái Bình. Harry Parkes cùng Aplin đàm phán với quân Thái Bình 5 ngày, tuyên bố nếu như phá hoại cửa khẩu, thương vụ, thì sự quan hệ hai bên không có cách gì cải thiện. Thiên vương lúc đầu cho rằng không làm tổn hại đến người nước ngoài, nhưng không dừng việc đánh Thượng Hải ; đến ngày 2/4 Harry Parkes và Aplin đích thân đến phủ Thiên vương gửi thư ; Thiên vương hứa trong vòng năm đó không đánh Thượng Hải và vùng phụ cận. Những điều yêu cầu của bọn Harry Parkes không phải là chủ trương của Luân Ðôn, Ngoại trưởng John Russell [La Tố] từng ra chỉ thị không can thiệp vào nội chiến Trung Quốc, chỉ lo giữ an toàn nhân sự và thương nghiệp. Tuy nhiên những báo cáo của các viên chức ngoại giao, quân sự tại chỗ, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chính sách.

Tháng 5/1861 James Hope bắt F. T.Ward về tội dụ dỗ lính Anh đào ngũ rồi trả cho Lãnh sự Mỹ ; nhưng Mỹ lấy cớ F. T. Ward đã nhập quốc tịch Hoa nên thả ra. F. T. Ward hứa không tiếp tục thu lính Anh đảo ngũ ; được James Hope giúp đỡ để chiêu tập đạo quân người Hoa, cùng được các sĩ quan Âu, Mỹ cấp cho trang bị. Nhờ vậy Dương thương đội của F.T. Ward quân số tăng lên trên 2.000 ; James Hope đích thân đến duyệt binh ; đây là hành động tích cực chuẩn bị chống quân Thái Bình. Ðạo quân của F.T. Ward trên đầu chít khăn xanh, nên được gọi quen là Lục đầu dõng, quân Thái Bình miệt thị là “ Giả Dương quỷ tử ”.

Lý Tú Thành nói người Tây dương đưa lời uy hiếp, đề nghị hợp tác rồi chia đôi, chúng nói “ Thiên vương các ngươi tuy đông nhưng không bằng 1 vạn quân của chúng ta… Ta có mấy vạn và binh thuyền, một tiếng trống dấy lên, có thể bình định. Quân ta hơn 1 vạn người đánh vào Bắc Kinh, khiến phải xin hòa. Các người không hợp tác, thì hãy xem ta hành động.” Hồng Tú Toàn không dao động, bảo rằng “Ta tranh giành Trung Quốc, muốn tự lo lấy ; nếu hợp tác với Dương quỷ, việc thành chia đôi, thì thiên hạ sẽ chê cười ; nếu không thành thì mang tội đưa quỷ vào nước.” Lý Tú Thành cũng nói “ Ðể một ngàn quân Tây dương, chèn ép hàng vạn quân ta ; vậy ai mà phục ! ”. Những lời trên, chứng tỏ Hồng Tú Toàn, Lý Tú Thành kiên định lập trường quốc gia ; tuy họ từng dùng người và vũ khí Tây phương, nhưng làm chủ được mình.

2. Tranh đoạt thành An Khánh

Sau khi Tương quân chiếm được Vũ Hán [Wuhan, Hồ Bắc], Cửu Giang [Jiujiang, Giang Tây] ; An Khánh trở thành chiến trường tại thượng du sông Trường Giang. An Khánh không chỉ là bình phong cho Thiên Kinh, nó còn giữ vị trí bảo hộ Sào Hồ [Chaohu, An Huy], vùng cung cấp lương thực cho Thiên Kinh. Từ tháng 12/1859 Tăng Quốc Phiên, Hồ Lâm Dực mưu đoạt An Khánh ; giao tranh nhiều lần với Anh vương Trần Ngọc Thành. Năm 1860 các đại doanh tại Giang Nam thất thủ, triều đình nhà Thanh mấy lần mệnh Tăng dời quân về phía đông ; Tăng có chủ kiến cho rằng đạo quân đánh dẹp An Khánh rất quan trọng, với những lý do sau đây : Thứ nhất từ xưa tới nay sách lược bình Giang Nam, nhờ thế thượng du từ trên đánh xuống mới mong thành công. Thứ hai, Tương quân đến gần tới chân thành ; nay rút đi thì thế địch tăng thêm, còn khí thế quân ta tiêu trầm. Thứ ba, thủy sư nếu chiếm được thành này “thì dựa vào đó làm thế căn bản, để ngăn nguồn lương cung cấp cho bọn giặc tại Kim Lăng (Nam Kinh) ; phá thế ỷ dốc từ Giang, Hoài.” Họ Tăng đo lường toàn cuộc, thâm tư viễn lự, có tầm nhìn chiến lược xác đáng. Nhưng triều đình vẫn muốn Tăng thu phục Tô Châu [Suzhou, Giang Tô], Thường Châu [Changzhou, Giang Tô] ; để bảo hộ cho Thượng Hải, Hàng Châu [Hangzhou]. Bất đắc dĩ Tăng tự cầm 8.000 quân đến Kỳ Môn [Qimen, An Huy] ; lưu Tăng Quốc Thuyên với 1 vạn 5.000 quân tiếp tục vây An Khánh. Ngoài ra còn có sự yểm trợ của các đạo lục quân Ða Long A, Lý Tục Nghi, Hồ Lâm Dực, cùng thủy quân của Dương Tái Phúc ; cộng ước 4 vạn quân.

Về phía đối phương, Thái Bình Thiên Quốc cũng đánh giá cao vị trí quan trọng của An Khánh. Hồng Nhân Can nói “ Từ xưa đến nay giành giang sơn, trước hết lấy tây bắc rồi xuống đông nam ; do từ trên xuống dưới, thế đã thuận mà dễ… Sông Trường Giang giống như con rắn dài, đầu là Hồ Bắc, An Khánh là lưng, Giang Nam là đuôi ; nếu để mất An Khánh, như lưng rắn bị cắt, thì cái đuôi tuy ngoe ngoảy cũng không được bao lâu.” Lúc bấy giờ Lý Tú Thành đánh Thượng Hải bất lợi, quay sang mở mang vùng Chiết Giang ; Thiên vương ra lệnh ngược sông Trường Giang, giải vây cho An Khánh ; rồi thừa lúc liên quân Anh Pháp đánh Bắc Kinh thì tiến lên phía bắc chiếm trung nguyên. Sau khi Lý Tú Thành và Trần Ngọc Thành hội bàn tại Giang Tô, phân công Trần hoạt động tại phía bắc tỉnh An Huy [Anquing] phụ trách bờ phía bắc sông Trường Giang ; Lý theo hướng Thiên Kinh [Nam Kinh] đương đầu phía nam tỉnh An Huy, tức bờ phía nam sông Trường Giang. Lại còn có Phụ vương Dương Phụ Thanh tiến đánh quân Tăng Quốc Phiên tại Kỳ Môn, Thị vương Lý Thế Hiền tiến vào phía đông tỉnh Giang Tây, đánh phía sau lưng Kỳ Môn [Qimen, An Huy] ; như vậy thì tự nhiên An Khánh sẽ được giải vây.

Ðạo quân của Trần Tú Thành di chuyển nhanh, lúc đầu đánh vào quân Ða Long A, hạ không được ; tiếp tục tiến đến Hồ Bắc [Hubei] với thế chẻ tre, trong 5 ngày đánh chiếm Hoàng Châu [Huangzhou, Hồ Bắc]. Qua lời cảnh cáo của Harry Parkes, nhắm tránh đối địch với quân Anh, bèn mang quân đánh các thành phía bắc tỉnh An Huy. Cuối cùng sai hẹn với Lý Tú Thành, hai đạo quân không liên hệ được với nhau, bèn dẫn quân về phía đông, tình hình An Khánh lại trở nên nguy cấp. Về các đạo quân Thái bình tại phía nam, từ tháng 12/1860 lại bức bách Kỳ Môn, Tăng Quốc Phiên cơ hồ không trụ nổi ; may nhờ đạo quân của Tả Tông Ðường từ phía đông tỉnh Giang Tây [Jiangxi] đánh chặn nguồn tiếp tế của Lý Thế Hiền, mới bắt đầu chuyển nguy thành yên. Lần tây chinh của Lý Tú Thành kỳ này, không được tích cực lại quá cẩn trọng, vào tháng 2/1961 vào Giang Tây, đánh vòng từ nam sang tây, đến tháng 6 vào tỉnh Hồ Bắc, gần thành Vũ Xương [Wugang, Hồ Bắc], biết được Trần Ngọc Thành, Lý Thế Hiền đã quay về phía đông, Bảo Siêu thuộc Tương quân tiến vào Giang Tây, Lý sợ đường về cản trở, Lãnh sự Anh tại Hán Khẩu cũng có lời khuyên ngăn ; bèn theo hướng phía nam Hồ Bắc quay trở về Chiết Giang.

Quân Thái bình tây chinh không lập được công, từ tháng 4 đến tháng 8/1861 Trần Ngọc Thành thu thập các đạo quân tại các miền bắc nam An Huy, cùng Thiên kinh gồm trên 3 vạn ; bốn lần đến cứu viện An Khánh. Tương quân ra sức chống cự ; đại doanh của Tăng Quốc Thuyên từ Kỳ Môn chuyển đến phía đối bờ với thành An Khánh, quân Hồ Lâm Dực từ Hồ Bắc xuống tương trợ, chiến đấu rất kịch liệt. Tương quân chỉ huy thống nhất, thủy bộ giữ thế ỷ dốc, lương thảo sung túc ; quân Thái bình chí không đồng, đội ngũ không chỉnh, bổ sung khó khăn. Tăng Quốc Thuyên mệnh các doanh lung lạc các tư thương không bán lương thực, Harry Parks cũng cấm thuyền Anh, An Khánh không được cung cấp gạo ; ngày 5/9/1861 lương hết, thành phá, toàn bộ quân Thái Bình hơn 1 vạn 6.000 người chiến tử ; An Khánh vào tay Tương quân, đây là chìa khóa mất còn của quân Thái Bình. Hồng Nhân Can nói rằng “ Tổn thất tối lớn của quân ta là khi An Khánh vào tay quân Thanh. Thành này là chìa khóa cửa của Thiên kinh, bảo vệ sự an toàn tại đông nam, một khi rơi vào tay bọn yêu, chúng có thể đánh vào cơ sở ta.”

An Khánh thất thủ, Trần Ngọc Thành chuyển sang Lô Châu [Luzhou, Hợp Phì, An Huy], bị cách chức. Mùa xuân năm 1862, quân Thanh vây Lô Châu, Trần Ngọc Thành chạy lên Thọ Châu [Shouzhou, Hợp Phì, An Huy], rồi bị đồng đảng giết lúc 26 tuổi. Trần chết, lực lượng quân Thái Bình tại phía bắc An Huy tan rã.

Khi Lý Tú Thành từ Hồ Bắc rút về phía đông, đã biết An Khánh khó giữ, nên vẫn theo kế hoạch trước khi tây chinh, nhắm đoạt lấy Hàng Châu, củng cố làm đất căn bản. Cuối năm 1861, quân Lý lấy được Hàng Châu, Thiệu Hưng [Shaoxing, Chiết Giang], Ninh Ba [Ningpo, Chiết Giang]. Tăng Quốc Phiên cảm thấy tình thế nghiêm trọng, báo động rằng “ Hiện nay vùng đất màu mỡ tại hai tỉnh Chiết Giang, Giang Tô đều vào trong tay giặc, sào huyệt đã thành, gốc rễ kiên cố… Binh lính tại tỉnh Chiết toàn nhờ vào lương thực tại Ninh, Thiệu ; nay bị giặc chiếm, cả tỉnh tiêu điều, không có cách trù hoạch ”. Nếu xét về phương diện kinh tế, quân Thái Bình chiếm được Hàng Châu, Chiết Giang ; so với việc mất An Khánh và miền bắc An Huy thì tương đương ; nhưng đứng về phương diện quân sự thì Hàng Châu, Chiết Giang không thể so sánh với An Khánh và phía bắc An Huy được. Thực vậy, đây là thắng lợi cuối cùng của quân Thái Bình, sau đó không còn có sự phát triển nào khác.

3. Ðánh giữ tại các cửa khẩu thông thương

Chiến lược của Lý Tú Thành là chiếm trọn Giang Nam, Chiết Giang ; thời gian tây chinh tuy chưa lấy được Thượng Hải, nhưng vùng Chiết Giang thì vẫn không buông tay. Tháng 4/1861, sau khi rút từ miền tây, quân Thái Bình chiếm Sạ Phố [Zhapazhen, Chiết Giang], nếu như vượt Hàng Châu loan có thể chiếm Ninh Ba [Ninhbo, Chiết Giang]. Tháng 5 James Hope phái Hạm trưởng Roderick Dew [Lạc Ðức Khắc] đến Ninh Ba, cảnh cáo quân Thái Bình không được tiến binh xâm phạm, lại giúp quân Thanh bố phòng, Thái Bình đáp rằng nguyện cùng quân Anh hòa hảo thông thương. Tháng 6, Frederick W. A. Bruce thông tư cho James Hope rằng bảo vệ cảng khẩu tức bảo vệ lợi ích buôn bán của người Anh, nhà Thanh đã đồng ý nước Anh thay giữ Ninh Ba, cùng bàn luận sách lược đánh chiếm Nam Kinh. Frederick cũng báo cáo với Ngoại trưởng John Russell rằng nếu quân Thái Bình chiếm cửa khẩu thì thương vụ bị phá hoại, quan thuế giảm, tiền bồi thường của nhà Thanh không được giao phó. Riêng James Hope không đồng ý đánh Nam Kinh, sợ việc buôn bán từ Thượng Hải vào nội địa bị đình chỉ. Ngoại trưởng John Russell không đồng ý chủ động, chỉ muốn các cửa khẩu giữ trung lập ; riêng kế hoạch sai Roderick Dew giúp bảo vệ Ninh Ba thì được chấp nhận.

Qua 80 ngày vây khốn, ngày 31/12/1861 quân Lý Tú Thành hạ được Hàng Châu, lực lượng trú phòng từ Tuần phủ Chiết Giang trở xuống, hơn 10.000 tử trận. Mười hai ngày trước đó, bộ hạ Thị vương Lý Thế Hiền đánh chiếm Ninh Ba, đây là cửa khẩu duy nhất quân Thái Bình chiếm giữ. Thái Bình quân kỷ luật nghiêm chỉnh, thương vụ vẫn hoạt động bình thường, được miễn thuế 3 tháng, người ngoại quốc tương đối yên ổn. Ðầu năm sau [1862] James Hope cùng Công sứ Mỹ Anson Burlingame [Bồ An Thần] đến Ninh Ba, cùng Lãnh sự Anh, Pháp hoạch định người ngoại quốc trú tại bờ phía bắc sông, không được quấy nhiễu. Sau đó đưa lời rằng pháo đài tại Ninh Ba bắn quấy nhiễu, yêu cầu dẹp bỏ, nhưng bị bác. Tháng 5/1862 chiến hạm Anh, Pháp giúp quân Thanh chiếm lại Ninh Ba.

Người Anh rất quan tâm đến Thượng Hải và các cửa khẩu trên sông Trường Giang ; Thiên vương chỉ hứa trong năm 1861 quân Thái Bình không xâm nhập Thượng Hải và vùng phụ cận. Khi Hàng Châu bị vây, James Hope dự liệu rằng nếu như thành này mất thì tất nhiên Thượng Hải bị uy hiếp. Vào ngày 27/12/1861 Harry Parkes lại đến Nam Kinh, sai Hạm trưởng Henry M. Bingham [Bình An] tiếp xúc, đề xuất 4 điều yêu cầu với Thái Bình Thiên Quốc : Thứ nhất, bồi thường cho người Anh bị cướp hoặc tổn thất tại khu vực quân Thái Bình. Thứ hai, quân Anh được tự do hàng hành trong khu vực nội hà quân Thái Bình chiếm. Thứ ba, nghiêm cấm quân Thái Bình xâm nhập khu vực Thượng hải và chung quanh 100 dặm. Thứ tư, không được tiến binh trong vòng 100 dặm tại các cửa khẩu Hán Khẩu, Cửu Giang và quấy nhiễu lãnh sự quán tại Trấn Giang. Kết quả bị bác, Thái Bình tuyên bố rằng sẽ tuỳ cơ thi thố.

Nước Anh quan tâm đến Thượng Hải, nhưng Lý Tú Thành cũng muốn lấy bằng được nơi này. Sau khi chiếm Hàng Châu bảy ngày, bèn mang quân lên phía bắc, hiểu dụ thương nhân ngoại quốc rằng “ Mỗi bên yên tâm, không quấy nhiễu lẫn nhau… Nếu trợ nghịch làm điều ác, đối địch với quân ta, thì tự rước lấy diệt vong ! ”. Vào tháng 1/1862 quân Thái Bình tiến chiếm các huyện chung quanh Thượng Hải, nắm giữ các vùng đất màu mỡ tại các tỉnh Chiết Giang, Giang Tô ; riêng tỉnh Chiết Giang quân triều đình nhà Thanh chỉ còn giữ được hai thành Hồ Châu [Huzhou], Hải Ninh [Haining] và Cù Châu [Quzhou]. Tăng Quốc Phiên bèn tiến cử Lý Hồng Chương làm quyền Tuần phủ Giang Tô, lập riêng cánh quân từ Thượng Hải mưu khống chế tỉnh Giang Tô. Riêng giao việc vây đánh Nam Kinh cho Tăng Quốc Thuyên ; dùng Tả Tông Đường làm Tuần phủ Chiết Giang ; nhờ vậy thế lực quân Thái bình tại miền đông nam yếu dần. Tháng 2 bị liên quân Anh, Pháp và Dương thương đội của F.T.Ward đánh bại tại Phố Ðông [Pudong,Thượng Hải]. Tháng 3, F.T. Ward được hạm đội Anh yểm trợ, lại hoạch thắng tại tây nam Thượng Hải ; Dương thương đội bèn đổi tên là Thường thắng quân. Tháng 4, Mạc vương Ðàm Thiệu Quang giao tranh với quân Anh Pháp và Thường thắng quân tại Tùng Giang bất lợi nên rút lui ; trên đây là giai đoạn một của chiến tranh tại Thượng Hải.

Quân Anh, Pháp muốn tảo thanh xung quanh Thượng Hải 100 dặm, bèn chuyển sang thế công, chiếm được thành trì giao cho Thường thắng quân giữ, tài vật chia đôi. Tháng 5, chiếm Gia Ðịnh [Jiading, Thượng Hải], Thanh Phố [Quingpu, Thượng Hải]. Lý Tú Thành phản công, thắng lớn tại Thái Thương [Taicang, Thượng Hải], lấy lại Gia Ðịnh, Ðề đốc Anh C. W. Staveley [Ðịch Phật Lập] đốt thành bỏ chạy ; Ðề đốc Pháp A. Protet [La Ðức] tử trận tại cầu Hiền Nam [Phố Ðông, Thượng Hải]. Tháng 6, Ðàm Thiệu Quang lấy lại Thanh Phố, bức bách huyện thành Thượng Hải ; quân Anh, Pháp mấy lần bại, không dám ra đánh. Lúc này Lý Hồng Chương mang quân Tương Hoài 1 đến, đánh trong ba ngày, quân Thái Bình mới rút. Tháng 8, Lý Tú Thành nhận cấp báo từ Thiên kinh, mang quân về phia tây, để Ðàm Thiệu Quang chủ trì tuyến phía đông. Tháng 11 quân Thái Bình lại bức bách Thượng Hải, bị quân Tương Hoài và Thường thắng quân đánh lui.

Lúc Thượng Hải sắp chiến tranh, các quan địa phương cùng với Anh, Pháp thành lập Trung ngoại hội phòng cục. James Hope, Frederick W. A. Bruce, và Lãnh sự Thượng Hài Walter H. Medhurst Jr. [Mạch Hoa Ðà] đều là những người Anh cực lực chủ trương tham chiến. Walter báo cáo bộ ngoại giao rằng quân Thanh không đủ sức bảo vệ Thượng Hải ; Frederick nhấn mạnh nếu không muốn buông bỏ lợi ích tại Trung Quốc thì phải duy trì triều Thanh, Công sứ Mỹ Anson Burlingame cũng cho rằng nhà Thanh là chính quyền hợp pháp, theo lẽ phải đáng yểm trợ. Lúc này Cung thân vương có quyền tại Bắc Kinh, cùng Frederick liên hợp tác chiến ; thực hiện các công việc cụ thể như nhà Thanh mướn thuyền máy giữ Ninh Ba ; quân Anh, Pháp bảo vệ Thượng Hải, Thường thắng quân phát triển đến 4.500 quân.

Khi Lý Tú Thành đánh Thượng Hải, Hồng Nhân Can không cho là đúng ; gừi thư bàn về việc An Khánh thất thủ Thiên kinh sẽ gặp nguy, cần phải ưu tiên cho miền tây bắc, sau đó mới đến đông nam. Lý Tú Thành cho rằng lấy được đông nam, có thể yên gối không lo, thế Tương quân chưa bại được, cần chờ cơ hội để mưu đồ. Sau đó Hồng Nhân Can nhận định rằng nguyên nhân mối họa của Thái Bình Thiên Quốc là “ Dương nhân trợ yêu ” 2.Nhận định này cũng nói lên một phần thực trạng, vì miền hạ du quân Anh, Pháp công khai chi trì Thanh triều, thượng du thì Tương quân đánh xuống, quân Thái Bình ở thế bị giáp công, đầu đuôi không khắc phục được.

4. Tương quân chia đường tiến, cùng sự trợ giúp của quân ngoại quốc

Năm 1860 Tăng Quốc Phiên đã có kế hoạch đánh chiếm Nam Kinh và Tô Châu, Thường Châu ; quân chia làm 2 đạo, nam và bắc ; nam quân từ Chiết Giang đánh vào, bắc quân từ hai bên bờ sông Trường Giang đánh xuống. Tại Túc Tùng [Susong, An Huy], tỉnh An Huy, Tăng cùng Hồ Lâm Dực, Tả Tông Ðường bàn định, cử Tả Tông Ðường kinh dinh vùng Chiết Giang. Tả Tông Ðường [1812-1885] người cùng tỉnh Hồ Nam với Tăng, Cử nhân xuất thân, có nhiều tài lược. Từ năm 1852 làm tham mưu cho Tuần phủ Hồ Nam Lạc Bỉnh Chương, Hồ Nam là hậu phương của Tương quân ; về quân lương, quân viện, chiến lược đều do Tả trù tính, uy quyền một thời. Vì danh vọng lớn, nên bị nhiều đố kỵ, khiến bị tội ; nhờ bọn Hồ Lâm Dực bảo lãnh mới được vô sự. Rồi qua sự tiến cử của Tăng Quốc Phiên, được chỉ huy một đạo quân đóng tại phía đông tỉnh Giang Tây, giữ mặt sau cho đại doanh Kỳ Môn. Sau khi Hàng Châu thất thủ, do lời tâu của Tăng, Tả Tông Ðường lãnh chức Tuần phủ Chiết Giang, đảm nhiệm chủ soái đạo quân phía nam. Năm 1862 tiến vào phía tây tỉnh Chiết Giang, trong vòng 8 tháng tương trì với quân của Lý Thế Hiền. Ðợi đến lúc Lý phải tăng viện Thiên kinh tại phía bắc, lực lượng của Tả bắt đầu tiến triển ; năm 1863 hạ được mấy thành, chiếm Phú Dương [Fuyang, Chiết Giang] gần Hàng Châu, được thăng chức Tổng đốc Mân Chiết.

Tại phía đông Chiết Giang có quân hỗn hợp người Hoa và ngoại quốc do Anh, Pháp tổ chức, hợp tác với quân Tả Tông Ðường. Trước tiên Lãnh sự Anh tại Ninh Ba mộ 300 quân, gọi là Lục đầu dõng. Sau khi chiếm được Ninh Ba, Hạm trưởng Roderick Dew [Lạc Ðức Khắc] bắt chước Thường thắng quân tại Thượng Hải, khuếch đại Lục đầu dõng lên 1.000, và chia thành Thường an quân và Ðịnh thắng quân. Người Pháp tên là Prosper Giquel [Nhật Ý Cách] thuộc ty quan thuế tại Chiết Giang, cùng với Tham tướng A. E. Le Brethon de Caligny [Lặc Bá Lặc Ðông] mộ 1.500 người gọi là Thường tiệp quân, cùng với quân Anh hoành hành. Năm 1862, Roderick Dew hội các quân Thường an, Ðịnh thắng, Thường tiệp, cùng Thường thắng quân tại Thượng Hải xuống, đánh chiếm được 4 huyện xung quanh Ninh Ba ; trong chiến dịch này chỉ huy Thường thắng quân, F.T. Ward, bị thương chết. Năm sau Thường an, Ðịnh thắng, Thường tiệp đánh Thiệu Hưng, mấy lần bị quân Thái Bình đánh thua. Các chỉ huy Thường tiệp quân hai lần tử trận, sau đó Paul D’Aiguebelle [Ðức Khắc Bi] tiếp tục chỉ huy, lấy được Thiệu Hưng [Shaoxing, Chiết Giang], quân số khuyếch trương lên đến 3.500 người. Riêng Thường an quân, và Ðịnh thắng quân, do Roderick Dew trở về nước, nên bị giải tán.

Loạn lớn tại Chiết Giang, Giang Tô ; các đại gia phú hộ đều tụ tập tại Thượng Hải, dân số từ 30 vạn lên đến 1 triệu. “ Buôn bán thịnh vượng, thuế má ngày một tăng, hơn một năm trưng binh đến 5 vạn 5 ngàn người ; nhưng phần lớn là bọn vô lại thành thị và bọn cướp ; nên giặc dòm ngó càng nhiều ”. Lúc này Tương quân chiếm được An Khánh, các thân sĩ Thượng Hải, Giang Tô muốn cầu viện Tăng Quốc Phiên, Tuần phủ Tiết Hoán cũng phụ họa theo. Tháng 11/1861 Hàng Châu bị vây, Thượng Hải bị đe dọa, bèn cử thân sĩ Tiền Ðỉnh Minh đến An Huy xin quân. Tăng Quốc Phiên nêu lên sự khó khăn về lương hướng không biết lấy ra từ đâu. Tiền Ðình Minh nói Thượng Hải là nơi hàng hóa ngoại quốc tụ tập, mỗi tháng thu được 60 vạn lượng, nay hứa cấp 10 vạn lượng ; Tăng Quốc Phiên rất mừng, định cử em là Tăng Quốc Thuyên đến chốn màu mỡ này.

Nhưng Tăng Quốc Thuyên ôm chí đánh chiếm Nam Kinh, nên không đến Giang Tô, Tăng Quốc Phiên bèn giao nhiệm vụ cho học trò là Lý Hồng Chương (1823-1901). Lý quê tại Hợp Phì [Hefei], An Huy, xuất thân Tiến sĩ ; từng giữ chức Hàn Lâm, phụ trách về đoàn luyện trong 5 năm, bị gò bó không toại chí bèn theo Tăng Quốc Phiên. Qua bốn năm rèn luyện, Tăng rất ưng ý, cho rằng “ tài lớn, sâu sắc ”, có thể độc lập đương đầu một mặt. Lý chiêu mộ đoàn luyện tại phía nam sông Hoài, Tăng cho biên chế thành doanh, lại đem bộ hạ Tương quân giao cho tiết chế. Năm 1862 tổ chức thành quân, gọi là Hoài dõng, lại được giao chức Tuần phủ Giang Tô. Tăng định sai Lý trú quân tại Trấn Giang. Lý cho rằng “ Thượng Hải là trục giao thông buôn bán, cần bố trí tại đó, nhiên hậu sau đó ra Trấn Giang, để ứng chiến với miền thượng du ”. Quyết định này không những quan hệ đến tiền đồ của Lý Hồng Chương, mà còn cải biến cả kế hoạch kinh lược Giang Nam của Tăng Quốc Phiên. Chiết Giang tơi tả, Hàng Châu thất thủ ; Tả Tông Ðường không rảnh để dòm ngó đến Tô Châu, Thường Châu ; Lý Hồng Chương chuyển quân đến, trở thành lực lượng chủ lực nơi này.

Ðối với quân Thanh, việc Anh, Pháp bố phòng Thượng Hải ; không những bảo toàn được nguồn lương hướng từ việc đánh thuế thông thương, mà còn là cơ sở giúp phản công Giang Nam. Vào tháng 3/1862, Thượng Hải Trung ngoại hội phòng cục mướn 7 chiếc thuyền máy của Anh, chở quân Lý Hồng Chương tới Thượng Hải ; James Hope phái quân hạm hộ tống. Ðầu tháng 4, Lý Hồng Chương mang quân Tương Hoài gồm 6.500, đáp thuyền máy xuôi dòng Trường Giang, xuyên qua vùng đất quân Thái Bình đóng “ gõ mạn thuyền hướng về phía đông, xuyên qua đất giặc hơn 1000 dặm ; vì thuyền đi nhanh, lại sợ người Tây dương, nên giặc chỉ đứng xa mà nhìn, không dám đến gần chặn hỏi.”

Sự nghiệp cuộc đời của Lý, phần lớn liên quan đến Tây phương ; lúc mới phát tích đã được ngoại nhân giúp đỡ. Ðến Thượng Hải khoảng một tháng, nhận chức Tuần phủ Giang Tô, thăng chức nhanh, giống như Tả Tông Ðường. Lúc bây giờ chiến tranh lớn mạnh, đến nơi quân Tương Hoài lập tức tham gia. Lý Hồng Chương biết ngoại quốc đánh giá cao sự hiện diện của đoàn quân, nên tăng gia liên lạc, “ muốn dùng Di biến đổi Hạ ” 3. Lý chú ý đến cách tác chiến Tây phương, nên bàn luận với James Hope giao 3000 quân nhờ sĩ quan Anh huấn luyện dùm ; nhân “ việc phòng thủ tại Thượng Hải phải tự cường, không thể chuyên dựa vào Tây dương ”, nhưng thời thế trước mắt không thể không nhờ sức lực họ. Ðến tháng 11 thì việc huấn luyện và trang bị vũ khí Tây phương hoàn tất. Lại cho rằng Thường thắng quân của “ F. T. Ward trang bị vũ khí tốt, nên tìm cách liên lạc, đoàn kết nhân tâm, liên kết với phần tử tốt các nước ”. F.T. Ward giúp tìm công nhân ngoại quốc chế đạn dược, cùng mua dùm súng ống ; nhờ vậy thực lực càng lớn mạnh.

Sau khi F. T. Ward mất, Lý Hồng Chương theo lời yêu cầu của Ðề đốc Anh, cho một người Mỹ khác là H.A. Burgevine [Bạch Tề Văn] chỉ huy Thường thắng quân. Tháng 10/1862, Tương Hoài quân, Thường thắng quân, cùng quân Anh, Pháp tái chiếm Gia Ðịnh. Quân Thái bình của Ðàm Thiệu Quang đem toàn lực phản công, bị đánh thua ; vùng phụ cận Thượng Hải được tảo thanh. Ðây là chiến thắng lớn của đạo quân Tương Hoài. Lúc bấy giờ Lý Tú Thành vây đánh Tương quân ngoài thành Nam Kinh, Lý Hồng Chương sai Thường thắng quân tiếp viện, H.A. Burgevine lấy cớ thiếu lương nên lần lữa không chịu đi. Lại ẩu đả với Ðạo viên Dương Phường, đoạt 4 vạn nguyên, nên bị Lý Hồng Chương cách chức. Sau đó Thường thắng quân được chính thức giao cho người Anh quản lý, do Thiếu tá Charles George Gordon [Qua Ðăng] chỉ huy.

Tăng Quốc Phiên cho rằng “ quân Thái Bình kết oán với Tây dương đã sâu, khiến người Tây dương phẫn giận, đây là cơ hội hiếm có của Trung Quốc…Thừa lúc Tây dương cử đại binh, quân ta các đạo cùng tiến ; quân giặc giao chiến không nhàn, tám phương mê loạn, đây là cơ hội trời diệt bọn phản nghịch Quảng Tây 4 ”. Ðầu năm 1862, Tăng phái 3 lộ đại quân : Thứ nhất, quân Tả Tông Ðường tiến đánh Chiết Giang, thứ hai, quân Lý Hồng Chương tăng viện Thượng Hải, Lộ thứ ba, đạo quân Tăng Quốc Thuyên đánh thẳng vào Nam Kinh ; kết quả Tăng lập đại công khắc phục thủ đô Thái Bình Thiên Quốc.

Tăng Quốc Thuyên bắt đầu cầm quân từ năm 1856, đánh thắng tại Cát An [Jian, Giang Tây] vào năm 1858 nên nổi tiếng ; sau khi khắc phục An Khánh, danh vọng càng cao. Tháng 3/1862 cùng người em út là Tăng Trinh Can từ An Khánh theo hai bờ sông Trường Giang đánh xuống phía đông. Quốc Thuyên theo bờ bắc, Trinh Can theo bờ nam ; ở giữa Bành Ngọc Lân dùng thủy quân sách ứng ; lại có Ða Long A đánh phía bắc An Huy, Bảo Siêu phía nam An Huy để bảo vệ cạnh sườn cho các đạo quân của hai Tăng. Từ tháng 4 đến tháng 5, quân phía bắc sông khắc phục được huyện Sào [Chaohu, An Huy], Hòa Châu [Hexian, An Huy] ; quân phía nam sông và thủy quân khắc phục được Vu Hồ [Wuhu, An Huy], Ðường Dư [Dangtu, Nam Kinh] đến gần Vũ Hoa đài tại phía nam thành Nam Kinh. Từ tuyến xuất phát An Khánh, đến nơi chỉ mất 60 ngày, hai Tăng hành quân tương đối nhanh vì những lý do sau đây : Thứ nhất, Trần Ngọc Thành sau khi thất bại tại An Khánh, thực lực suy sụp, lại bị kiềm chế bởi Ða Long A. Thứ hai, quân của các Vương tại phía nam An Huy như Ðổ vương Hoàng Văn Kim, Phụ vương Dương Phụ Thanh mấy lần bại bởi Tương quân dưới quyền Bảo Siêu, nên hai Tăng không bị quấy nhiễu đằng sau. Thứ ba, lực lượng của Thị vương Lý Thế Hiền bị Tả Tông Ðường khiên chế ; riêng Trung vương Lý Tú Thành phải giao tranh với quân Anh, Pháp và Thường thắng quân tại vùng chung quanh Thượng Hải, nên nhất thời không chuyển sang phía tây kịp. Lúc này Thiên Kinh ba lần bị vây, Tương quân ở ngoài thành có thủy sư liên lạc, nên không bị lâm vào cảnh quân cô thâm nhập.

Lý Tú Thành từng tiên liệu việc Tương quân vây khốn Thiên Kinh, nên chủ trương trữ lương ; nhưng Thiên vương không nghe, anh em họ Hồng lại thao túng vơ vét tiền bạc, đến lúc vùng Sào Hồ bị Tương quân chiếm, nguồn lương đứt đoạn. Trong vòng 2 năm Thiên Kinh không có bóng quân địch, đến lúc Tương quân đột ngột đến, Thiên vương trong ngày ba lần gọi Lý Tú Thành về tiếp viện, Lý đành phải bỏ dở thế công tại Thượng Hải. Lý nhận định rằng “ Tương quân từ trên đánh xuống, thủy quân có lợi thế, ta mệt họ an dật, ta khó tranh được thủy đạo, quân họ thường thắng, thế càng thêm hùng ; vậy không nên đánh ngay. Cần chuyền lương về kinh thật nhiều, đợi 24 tháng sau sẽ giao chiến, quân họ đóng lâu, tất không có lòng chiến đấu ”. Thiên vương lại gửi nghiêm mệnh đến, bảo rằng “ Nếu không tuân chiếu, phép nước khó dung ”. Lý đành phải miễn cưỡng tuân mệnh. Tháng 10, quân Lý Tú Thành đến phía nam thành Nam Kinh, đánh Vũ Hoa đài suốt đêm “ súng pháo Tây dương, đạn bay như đom đóm ”. Lý Thế Hiền cũng mang quân từ Chiết Giang đến, khai quật địa đạo tác chiến.

Lúc bấy giờ mùa thu, dịch phát lớn ; Tương quân bị bệnh quá nửa, Tăng Quốc Thuyên giữ vững lương thực, liều chết không rút. Qua 4 tháng trời chiến đấu, quân Thái Bình lương thực không tiếp tế đủ, áo mùa đông không có, số quân có nhiệm vụ chặn nguồn lương của Tương quân bị thủy quân đánh bại. Chiến dịch này kể từ khi khắc phục An Khánh, là một cuộc đại chiến mang tính quyết định ; Tăng Quốc Phiên ngũ tạng như đốt “ sức đã dùng hết, mật như muốn phá ” lo cho công việc, trải qua mấy năm gian khổ chiến đấu, khỏi bị thình lình sụp đổ ; kết cục chuyển nguy thành an. Hồng Tú Toàn động viên toàn lực cũng không lay động nổi Tương quân ; số mệnh của Thiên Kinh nằm trong vòng quyết định sẵn.


V. Thái Bình Thiên Quốc cùng đường


1 Kỷ cương bại hoại

Sách lược của Thái Bình Thiên Quốc về tín ngưỡng, chính trị, kinh tế, xã hội từng thi thố, cho dù bị bài xích rằng xảo trá quỉ quyệt ; nhưng buổi biến loạn cũng thu được một số hiệu quả trong việc mê hoặc lòng người. Lúc mới khởi sự, trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, những người lãnh đạo vào tuổi thanh niên 1, dõng khí bồng bột, chiếm vào đa số. Kể từ giữa thời kỳ cho đến giai đoạn cuối, lắm điều sai trái xẩy ra, rồi đi đến bại vong. Ðương nhiên thời thế đóng góp một phần, nhưng nội bộ hủ hóa, ác hóa, đánh mất tinh thần phấn đấu vẫn là nguyên nhân chính.

Ðối với quân Thái Bình tôn giáo có ảnh hưởng lớn, nhưng cũng gây di lụy không ít. Tôn giáo giúp cho Hồng Tú Toàn thu phục không ít tín đồ một lòng trung thành hy sinh ; nhưng cũng khích động sự phản kháng của phe truyền thống danh giáo, đi đến chỗ cừu địch, thế hai bên không cùng tồn tại. Hồng vốn dựa vào tôn giáo để lừa người, nhưng nó lại là dao hai lưỡi, đâm ngược vào chính mình. Thuyết “ Thiên phụ hạ phàm ” lúc khởi đầu, chấp nhận Dương Tú Thanh quyền lực ngang ngữa với Hồng, để rồi gây nên một loạt nội biến tại Thiên Kinh, tổn thương phần lớn sinh lực. Dùng tôn giáo mê người, rồi ngược lại mê đến chính mình ; Hồng một mực tin ở trời, không tin sức người. Sau khi An Khánh thất thủ, Lý Tú Thành khuyên nên phòng bị Tương quân vây Thiên Kinh, Hồng mắng rằng “ Ngươi sợ chết ! Ta vốn mệnh là chân chúa, không cần dùng binh cũng định thái bình nhất thống ” !

Sau cuộc nội loạn tại Thiên kinh, Hồng Tú Toàn chỉ tin người trong họ ; dù bất tài cũng sủng hạnh, để cho bọn chúng làm quấy làm xằng, khiến lòng người chia lìa. Lý Tú Thành từng khuyên “ chọn người tài mà dùng, theo chế độ cấp tuất cho dân, thân nghiêm pháp lệnh, nghiêm túc kỷ cương triều đình ”, nhưng Hồng không nghe. Những người trong họ, chỉ riêng Hồng Nhân Can có kiến thức, nhưng thiếu công trạng, đến Thiên Kinh chỉ mới nửa năm được phong làm quân sư, từ khi chấp chính “ các tướng dưới quyền không phục, thế giặc trở nên suy, đều do tại đó ”. Năm 1961, Hồng Nhân Can điều động viện binh cứu An Khánh thất bại, bị cách chức. Bèn tin dùng hai người khác cùng họ là Hồng Nhân Phát, Hồng Nhân Ðạt, thì tình hình càng trở nên bại hoại, Lý Tú Thành lại đem lời tâu, lần này Thiên vương không những không nghe, lại còn giận dữ bảo “ việc chính sự không can dự gì đến ngươi…”.

Lạm phong chức tước cũng là một đòn chí mệnh đánh vào quân Thái Bình. Thời kỳ đầu, ngoại trừ Ðông, Tây, Nam, Bắc, Dực, 5 vương, còn có Yên vương Tần Nhật Cương, Dự vương Hồ Dĩ Quang. Sau cuộc nội biến tại Thiên kinh ngoài Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành, anh em nhà họ Hồng cũng được phong vương. Sau đó vì nghi kỵ nên dưới các tướng chỉ huy lại có thêm vương để chia bớt quyền. Trước kia chủ tướng có một vài người, sau đó tăng thêm đến số trăm ; ngoài ra còn có Thiên tướng, Triều tướng, Tá tướng thì không kể hết hết được. Nói tóm lại bộ máy chỉ huy cồng kềnh, tiêu phí ; nhưng nghi kỵ lẫn nhau, hoạt động không hiệu quả.

Các vương có quyền thế sống xa hoa, xây dinh thự lớn ; Lý Tú Thành cũng nằm trong số đó. Phó Lãnh sự Anh R. J. Forrest [Phúc Lễ Tứ] kể rằng dinh thự Trung vương có hàng ngàn thợ xây cất, tráng lệ không thua gì phủ Thiên vương, nón của vương đúc bằng vàng, nạm bởi châu báu. Lý Hồng Chương mô tả Trung vương phủ tại Tô Châu [Shuzhou, Giang Tô] do 700 thợ tu tạo, 3 năm trời chưa xong, có lầu quỳnh gác ngọc, lan can quanh co, đẹp như chốn thần tiên. Một người Anh nói triều đình Nam Kinh [Nanjing] không lo cho dân, chỉ cướp bóc mà sống, lại hủ hóa rượu chè, hút nha phiến, cờ bạc thịnh hành.

2. Toàn cục sụp đổ

Năm 1857, Dực vương Thạch Ðạt Khai bỏ đi, liên quan đến vận mệnh của Thái Bình Thiên Quốc rất lớn, vì không những mất đi một tướng tài, lại còn bị tước mất số lượng lớn quân. Vùng phụ cận An Khánh [Anquing, An Huy] sáu, bảy vạn quân bỏ đi theo, tại Giang Tây [Jiangxi] lại càng đông ; tính ra quân Thái Bình thiệt mất khoảng một nửa. Vào năm 1859, Thạch Ðạt Khai hành quân từ phía đông Giang Tây qua phía tây Chiết Giang [Zhejiang], rồi vòng sang phía nam Giang Tây [Jiangxi], đến phía tây Hồ Nam [Hunan] ; có ý định tiến sang Tứ Xuyên [Sichuan], nhưng bị lực lượng Tương quân của Lưu Trường Hữu, Lý Tục Nghi đánh bại tại Bảo Khánh [Baoquing, Hồ Nam], đành chuyển đường sang Quảng Tây [Guangxi].

Bộ hạ của Thạch khoảng 20 vạn quân, phần đông là dân thuộc lưu vực sông Trường Giang [Changjiang] và Quảng Ðông [Guangdong] Thiên Ðịa hội ; sau thất bại tại Bảo Khánh, lòng quân tan rã, bỏ đi rất đông. Sau khi vào đến Quảng Tây, thiếu lương thực, tiền đồ mờ mịt, sĩ khí táng thất ; hoặc bỏ đi về phía đông, hoặc bị thua bại, suy sụp đến cực độ. Năm 1861, Thạch mang tàn quân khoảng 1 vạn trở lại tỉnh Hồ Nam, tại vùng biên địa các tỉnh Hồ Nam [Hunan], Hồ Bắc [Hubei] ; năm sau di chuyển đến đông nam tỉnh Tứ Xuyên.

Tứ Xuyên là tỉnh đất hiểm, dân giàu ; một trong những nguồn lương thực chính của nhà Thanh. Năm 1859, Lam Ðại Thuận, Lý Vĩnh Hòa khởi binh tại vùng giáp giới các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam, chiếm cứ Lương Sơn [Liangshan, Tứ Xuyên], gần tỉnh lỵ Thành Ðô [Chengdu, Tứ Xuyên], thanh thế phấn chấn; Thạch Ðạt Khai mưu tìm cách liên lạc. Tổng đốc Lý Bỉnh Chương mang Tương quân đến đánh ; Lam, Lý bị thua, chẳng bao lâu Lý tử trận. Năm 1863 Thạch Ðạt Khai đi vòng qua biên giới tỉnh Vân Nam [Yunnan], vượt qua thượng du sông Trường Giang, đến sông Ðại Ðộ Hà [Daduhe, Tứ Xuyên] bị ngăn trở ; rồi gặp quân Thanh và Thổ ty giáp công, toàn quân tiêu diệt, Thạch Ðạt Khai bị bắt.

Năm 1862 đánh nhau tại ngoại thành Nam Kinh [Nanjing], Lý Tú Thành không giải vây được. Năm sau, Lý vượt sông Trường Giang tiến về phía tây, mưu liên hợp với bộ hạ cũ của Trần Ngọc Thành, cùng quân Niệm ; nhắm chiếm cứ phía bắc tỉnh An Huy, lay động đại doanh Tương quân tại An Khánh cùng đả thông nguồn lương thực đất Sào Hồ [Chaohu, An Huy] ; nhưng bộ hạ đánh không hăng, không lập được công, đành phải rút lui. Lúc này vào mùa giáp hột 2, quân chết đói không ít. Tháng 6, từ Phố Khẩu [Pukou, Nam Kinh] đạo quân Lý lại vượt sông Trường Giang ; bị Tương quân thủy, bộ đánh chẹn, chết mất hàng chục vạn, đây là trận đại thảm bại. Lúc này quân Thái Bình chỉ còn khống chế bờ phía nam sông Trường giang, vùng Tô Châu, Hàng Châu [Hangzhou, Giang Tô] và Nam Kinh.

Tháng 7 năm 1863, Tương Hoài quân của Lý Hồng Chương và Thường thắng quân tiến đánh Tô Châu ; các tướng chủ lực có Trình Học Khải, Charles George Gordon [Qua Ðăng], cùng quân hạm và Dương thương đội do người Pháp huấn luyện. Lúc này H.A. Burgevine [Bạch Tề Văn] đã bị cách chức, ôm hận nên theo quân Thái Bình tại Tô Châu, nhưng không được vừa ý. Tháng 9, Lý Tú Thành mang quân từ Thiên Kinh đến Tô Châu tiếp viện, cùng với Mạc vương Ðàm Thiệu Quang phản công bất lợi, dịp này H. A. Burgevine hàng Charles George Gordon. Tháng 11, Thái Bình Thiên Quốc có nội biến, Lý Tú Thành cho rằng tình thế không thể làm gì hơn, bèn bỏ thành hướng về phía tây. Tháng 12, Nạp vương Cáo Vĩnh Khoan giết Ðàm Thiệu Quang mở cửa thành xin hàng, Trình Học Khải vào thành giết bọn Cáo Vĩnh Khoan. Charles George Gordon, chỉ huy Thường thắng quân, kịch liệt chống đối Lý Hồng Chương, không chịu sự tiết chế của Lý ; vì trước đây Charles từng bắt giây liên lạc với Cáo Vĩnh Khoan, việc giết Cáo làm hỏng chính sách chiêu hàng của y. Bộ hạ Lý Hồng Chương đánh chiếm Vô Tích [Woxi, Giang Tô], rồi lên phía bắc tấn công Thường Châu [Changzhou, Giang Tô]. Quân Thái Bình tại nơi này, sợ hàng sẽ bị giết như tại Tô Châu, nên liều mình cố thủ. Tháng 2/1864 Charles Georges Gordon tuân lệnh Công sứ Anh Frederick W. A. Bruce [Bốc Lỗ Tư] điều Thường thắng quân tham chiến ; tháng 5 quân Thường thắng giúp quân Tương Hoài đánh chiếm được Thường Châu. Lúc này chiến sự đến hồi cuối, Thường thắng quân giải tán ; trong vòng gần 4 năm, Thường thắng quân dùng lương đến ngàn vạn nguyên ; có công giúp Lý Hồng Chương bình định Giang Nam tương đối lớn.

Bộ phận Chiết Giang [Zhejiang] của Tả Tông Ðường từ tháng 4/1863 vây Phúc Dương [Fuyang, Chiết Giang], lâu ngày không hạ được ; đến tháng 9, Paul d’Aiguebelle [Ðức Khắc Bi] chỉ huy Thường tiệp quân từ phía đông Chiết Giang đến tăng cường mới chiếm được. Rồi trải qua 6 tháng trời khổ chiến, đến tháng 3/1884 quân Thái Bình bỏ thành Hàng Châu chạy ; quân của Tả cùng Thường tiệp quân xông vào cướp bóc. Cùng tháng, đạo quân của Lý Hồng Chương chiếm được Gia Hưng [Jiaxing, Chiết Giang], các thành phụ cận đều xin hàng.

Mùa đông năm 1863, quân Tăng Quốc Thuyên đã chiếm hết các vị trí quan trọng xung quanh thành Nam Kinh. Sau khi thành Tô Châu thất thủ, Lý Tú Thành thấy tình hình hết phương cứu vãn, Nam Kinh không có lương, binh lực chỉ còn hơn 1 vạn, khuyên Hồng Tú Toàn bỏ thành chạy, để cầu con đường khác. Hồng không nghe, nói rằng “ Trẫm phụng Thượng đế cùng Thiên huynh Gia Tô thánh chỉ xuống trần, là chân chúa độc nhất cho cả nước, thì có sợ gì ai ? Trẫm là thùng sắt của giang sơn, nếu ngươi không phò thì cũng có kẻ khác phò. Ngươi nói không có binh, ta có thiên binh dưới nước, lại còn sợ tên yêu họ Tăng ư ! ”. Trong thành cướp bóc nổi như ong, “ Tăng quân ngày đêm bức bách, trong ngoài kinh hoàng, giữ doanh giữ thành không biết dựa vào đâu ” ; không ít chỉ huy cao cấp ngầm thông với địch, trong đó có cả Lý Tú Thành. Ðến lúc thất thủ Thường Châu, Hồng Tú Toàn cảm thấy tuyệt vọng ; ngày 30/5/1884 lệnh đại chúng an tâm “ Trẫm lên thiên đường ngay, xin Thiên phụ, Thiên huynh sai Thiên binh bảo vệ Thiên kinh ” ; có thể thấy đến lúc chết Hồng vẫn chưa tỉnh ngộ, còn tự lừa mình, lừa người. Sau hai ngày, Hồng uống thuốc độc tự tử, thọ 52 tuổi. Con nhỏ gọi là ấu chúa Hồng Thiên Quý Phúc kế vị.

Kể từ tháng 4, khoảng 5 vạn Tương quân vây thành, dùng trăm cách đánh phá thành, thương vong đến 1/10. Hoài quân đã chiếm được Thường Châu, triều đình nhà Thanh muốn chiếm gấp Nam Kinh, mệnh Lý Hồng Chương đưa pháo đội đến cùng đánh. Lý biết rằng Tăng Quốc Phiên muốn Tăng Quốc Thuyên lập đại công, nên kiếm lời từ chối. Tăng Quốc Thuyên báo cáo thiếu lương chứ không thiếu quân ; rồi khai quật thêm địa đạo, dùng tạc đạn phá đổ thành ; ngày 19/7/1864 tức ngày 16/6 năm Ðồng Trị thứ ba, Tương quân đột nhập thành. Lúc này bốn phía lửa dấy lên, quân Thái Bình tung lời “ Không để lại một miếng vải thừa cho bọn yêu hưởng ”. Trong 3 ngày “ giặc đốt 3 phần, thì quân binh đốt 7 phần, khói tỏa ngút lên mấy chục chỗ, kết tụ trên không trung, bao phủ đồi núi bởi màu tím ”. Tương quân ham cướp đoạt, lấy hết vàng bạc, bảo vật, rồi phóng hỏa đốt để diệt tung tích. Ngoài quân Thái Bình ra, dân chúng cũng bị tàn sát ; số người chết ước hai, ba chục vạn.

Lý Tú Thành mang ấu chúa đột kích ra khỏi thành, giữa đường thua bại, Lý bị bắt. Sau đó Tăng Quốc Phiên đến, ra lệnh tự viết cung từ, viết xong thì giết, tuổi 40 ; nhờ vậy lưu lại bộ sử liệu giá trị về Thái Bình Thiên Quốc. Riêng ấu chúa được đưa đến Hồ Châu [Huzhou, Chiết Giang] ; vào tháng 8/1864 quân của Lý Hồng Chương, Tả Tông Ðường đánh đuổi quân Thái Bình tại thành Hồ Châu và phụ cận. Bọn Hồng Nhân Can đưa ấu chúa đến Giang Tây hội với Thị vương Lý Thế Hiền và Khang vương Uông Hải Dương. Tháng 11, Ấu chúa bị bắt tại phía đông tỉnh Giang Tây ; riêng Lý Thế Hiền chạy sang Quảng Ðông [Guangdong], đến Phúc Kiến, rồi chiếm lãnh Chương Châu [zhangzhou] và các thành phía nam Phúc Kiến [Fujian]. Tả Tông Ðường, Lý Hồng Chương cho quân đến đánh, tháng 5/1865 khắc phục Chương Châu ; sau đó Lý Thế Hiền bị Uông Hải Dương giết. Rồi quân Uông ra vào tại vùng biên giới các tỉnh Quảng Ðông, Phúc Kiến, Giang Tây, chiếm cứ vùng Gia Ứng [Jiaying], tỉnh Quảng Ðông, đến năm 1866 bị quân Tả Tông Ðường tiêu diệt.

Do Lý Tú Thành sai phái đi miền tây mộ quân về cứu Thiên kinh, năm 1862 Phù vương Trần Ðắc Tài và Tuân vương Lại Văn Quang xuất phát từ phía bắc tỉnh An Huy [Anquing], qua Hà Nam, đến miền Hán Trung [Hanzhong] Thiểm Tây [Shaanxi]. Năm 1864 chia đường trở lại phía đông, hợp với quân Niệm vào tỉnh Hồ Bắc, thì hay tin Nam Kinh đã mất, chần chừ tại Hồ Bắc, An Huy ; bị quân Tăng Cách Lâm Thấm đánh thua, Trần Ðắc Tài tự tử. Riêng Lại văn Quang hợp tác với Niệm, trở thành cục diện mới.

3. Quân Niệm lớn mạnh và công cuộc bình định

Hoạt động quân sự của Thái Bình Thiên Quốc thời hậu kỳ hạn chế tại phía nam sông Trường Giang có liên quan nhiều đến quân Niệm tại vùng Giang Hoài ; nửa số quân của Trần Ngọc Thành, Lý Tú Thành thời đó đều là quân Niệm. Căn cứ địa của quân Niệm nguyên tại phía bắc sông Hoài, vào năm 1858 tiến vào tỉnh Hà Nam [Henan] và phía tây tỉnh Sơn Ðông [Shandong] ; tuy chuyên tâm cướp bóc, nhưng cũng làm thế thanh viện cho quân Thái Bình. Năm sau chia đường tung ra bốn phương, phía đông đến miền đông tỉnh Sơn Ðông, phía tây đến miền tây tỉnh Hà Nam ; đi về vãng lai, đánh vào những nơi sơ hở. Năm 1860, cánh phía tây cướp phá Khai Phong [Kaifeng], tỉnh Hà Nam, tung hoành trên 30 châu huyện ; cánh phía đông quấy nhiễu Tế Ninh [Jining], Thái An [Taian] tỉnh Sơn Ðông, kinh qua 20 châu huyện. Rồi quay lại phía bắc An Huy, trên đường “ chở hàng trăm xe lương, súc vật đến mấy vạn, vừa đi vừa ca hát.”

Năm 1961, quân Niệm càng lớn mạnh, cánh phía tây phối hợp với quân Thái Bình của Trần Ngọc Thành đánh phía tây, từ tháng 2 đến tháng 5, một nhánh vào phía nam tỉnh Hà Nam, một nhánh vào miền đông, miền trung, kinh qua các vùng Nam Dương [Nanyang, Hà Nam], Trịnh Châu [Zhengzhou, Hà Nam], phá Lão Hà Khẩu [Laohekou] tỉnh Hồ Bắc, rồi quay trở lại Hào Châu [Bozhou, An Huy]. Vào tháng 11, lại sang phía tây, một nhánh đánh Khai Phong, Trịnh Châu, Lạc Dương [Luoyang, Hà Nam] ; một nhánh đánh Tương Dương [Xianyang], Phan Thành [Fancheng] thuộc tỉnh Hồ Bắc. Cánh phía đông vào tỉnh Sơn Ðông, mấy lần đánh bại quân Tăng Cách Lâm Thấm từ kinh đô đến, hai lần bức bách Tế Nam [Jinan, Sơn Ðông]. Quân của Tăng Cách “ bôn tẩu mệt mỏi, lương thảo không liên tục ” nên chỉ giữ sông Hoàng Hà làm vững cho tỉnh Trực Lệ [Hebei]. Quân Niệm xua đến phía đông, tiến đến Yên Ðài [Yantai], bị quân Anh, Pháp đánh lui. Cũng vào năm 1861, Bạch Liên giáo tại Sơn Ðông nổi lên như ong, tại phía nam có Tống Kế Bằng, sau đó có Trương Tích Châu ; miền trung có Lưu Ðức Bồi.

Từ năm 1861 đến 1863, Tăng Cách Lâm Thấm bôn ba đánh dẹp trong 4 tỉnh : Trực Lệ, Sơn Ðông, Hà Nam, An Huy ; sau khi quân Thái Bình thất bại tại miền bắc An Huy, thế lực quân Niệm suy vi. Năm 1863 Tăng Cách Lâm Thấm đánh bại Trĩ Hà Tập, bắt sống Trương Lạc Hành, kế đó lại dẹp Miêu Bái Lâm. Bộ phận còn lại của Trương Lạc Hành do người cháu là Lương vương Trương Tông Vũ, cùng Lỗ vương Nhậm Hoa Bang thống suất, di chuyển chiếm cứ vùng Hà Nam, sau đó hợp với Tuân vương Lại Văn Quang. Lại Văn Quang mưu lược, Trương Tông Vũ cơ trí, Nhậm Hoa Bang rất thiện chiến; chuyên áp dụng chiến thuật di chuyển nhanh đánh bất chợt.

Từ năm 1861 trở đi, triều đình nhà Thanh dựa vào chủ soái Tăng Cách Lâm Thấm ngăn chặn vùng lưu vực các sông Hoàng, Hoài ; cùng với Tăng Quốc Phiên tại lưu vực sông Trường Giang nghiễm nhiên trở thành hai cột trụ ; tuy nhiên cả hai không dung hợp với nhau. Bộ hạ của Tăng sau khi bị liên quân Anh Pháp đánh bại, gom góp thành quân, tinh thần chiến đấu so trước thua xa, lại vô kỷ luật, đi đến đâu thì giết nhiều người, nên dân chúng rất ghét hận. Từ tháng 9 đến tháng 12/1864, quân Niệm mấy lần đánh bại quân Tăng Cách tại phía nam tỉnh Hà Nam, phía đông tỉnh Hồ Bắc, cùng vùng biên giới hai tỉnh này. Năm sau 1/1865 lại đánh bại tại huyện Lô Sơn [Lushan] phía tây tỉnh Hà Nam ; tháng 5 quân Niệm di chuyển nhanh đến vùng biên giới các tỉnh Sơn Ðông, Giang Tô ; Tăng Cách truy đuổi đến cùng không tha. Ngày 18/5 toàn quân của Tăng Cách bị tiêu diệt tại Tào Châu [Caozhou] tỉnh Sơn Ðông. Quân Niệm sở trường về di chuyển nhanh, đánh nhanh ; mỗi lần đánh cho kỵ binh tỏa ra bốn phía “ Trinh sát quan quân đến, nếu mạnh thì tránh ; được thế thì truy kích suốt đêm, dương cờ đánh, dùng kỵ binh đánh ép hai bên, ngựa hý người reo nhanh như vũ bão, quan quân thường bị vây không ra được ” ; đến nay lại lấy được toàn số ngựa của quân Mông Cổ dưới quyền Tăng Cách, thì như hổ thêm cánh.

Sau khi Tăng Cách Lâm Thấm mất, miền Hoa bắc chấn động, kinh sư giới nghiêm. Chiếu chỉ mệnh Tăng Quốc Phiên đốc biện quân vụ 3 tỉnh : Trực Lệ, Sơn Ðông, Hà Nam. Lại mệnh Tổng đốc Trực Lệ Lưu Trường Hữu, Thiên Tân thông thương Ðại thần Sùng Hậu thống lãnh Dương thương đội chặn giữ phía nam tỉnh Trực Lệ ; Lý Hồng Chương cũng mang quân từ Thượng Hải lên tăng phòng Thiên Tân. Tăng Quốc Phiên cho rằng Tương quân phần lớn người phương nam, không hợp thủy thổ, nên giải tán một nửa ; cho mộ thêm quân tại lưu vực Hoàng, Hoài ; lại mua ngựa chiến, chuẩn bị pháo thuyền, đến hơn một tháng mới lên phía bắc. Chiến lược của Tăng đổi truy kích thành chặn đánh, lấy tĩnh chế động. Tăng chia thành 4 trấn, đóng trọng binh chứa nhiều lương thảo, gồm : Chu Gia Khẩu tại tỉnh Hà Nam, Tế Ninh [Jining] Sơn Ðông, Từ Châu [Xuzhou] Giang Tô, và Lâm Hoài quan [Linhuaiguan] An Huy. Cứ một nơi có khẩn cấp, thì 3 nơi khác đến tiếp cứu ; để bao vây quân Niệm tại biên giới 3 tỉnh An Huy, Giang Tô, Hà Nam. Ngoài ra nhắm khống chế vùng đất căn bản của Niệm như Hào Châu [Bozhou, An Huy], Mông Thành [Mengcheng, An Huy], Túc Châu [Suzhou, An Huy], thì cho đặt bảo giáp, kiểm tra hộ khẩu cùng lương thực tiếp tế. Binh lực 4 trấn khoảng 8 vạn, 3 trấn do Hoài quân đảm trách, riêng trấn Lâm Hoài Quan do Tương quân chịu trách nhiệm ; lý do Hoài quân phần lớn người phương bắc, hợp với thủy thổ.

Sau khi tiêu diệt quân Tăng Cách Lâm Thấm, quân Niệm trở về phía bắc sông Hoài, dưỡng quân và bổ sung. Nhắm đột phá kế hoạch bao vây của Hoài và Tương quân, Niệm hành quân xuyên qua tỉnh Hà Nam, đến Hồ Bắc gần Hán Khẩu [Hankou] ; mùa xuân năm 1866, trở lại Sơn Ðông. Chiến lược chặn đánh từ 4 trấn của Tăng Quốc Phiên chứng tỏ vô hiệu.

Tăng bèn đổi chiến lược, cho đắp đê tường dọc sông. Phía bắc từ vùng phụ cận phủ Khai Phong theo sông Giả Lỗ Hà đến Chu Gia Khẩu, từ Chu Gia Khẩu theo Sa Hà đến Hòe Trạm, Dương Quan ; đó là tuyến phía tây, Từ Dương Quan theo sông Hoài đến Lâm Hà Quan thuộc tuyến phía nam. Tuyến phía đông giữ Vận Hà [Yunhe], tuyến phía bắc giữ Hoàng Hà ; nhắm đưa quân Niệm vào vùng nhiều núi để chế ngự kỵ binh. Vào mùa đông năm đó quân Niệm đột phá phòng tuyến vùng Khai Phong tiến đến Sơn Ðông ; chiến lược phòng thủ bờ sông của Tăng Quốc Thuyên cũng thất bại. Quân Niệm tuy vượt qua tuyến phía bắc, nhưng bị ngăn chặn tại tuyến phía đông, Vận Hà ; nên đành phải quay về phía nam tỉnh Hà Nam.

Trong vòng 3 năm, quân Niệm mấy lần đánh thắng, nhưng Lại Văn Quang cảm thấy cô quân khó chi trì, nên sai Trương Tông Vũ tây tiến đến Thiểm Tây, Cam Túc [Gansu] liên hiệp với quân Hồi để làm thế ỷ dốc. Lại và Nhậm Hóa Bang lưu lại Trung Nguyên, do vậy có tên là Ðông Niệm, Tây Niệm. Tăng Quốc Phiên đốc quân mấy năm không có kết quả, lại bị Ngôn quan 3 đàn hặc, nên xin từ chức ; chiếu chỉ sai Lý Hồng Chương thay thế giữ chức Khâm sai đại thần. Lại Văn Quang điều quân Ðông Niệm trở lại Hồ Bắc, từ tháng 1 đến tháng 3/1867 mấy lần đánh bại Hoài quân, Tương quân tại phía bắc và đông tỉnh Hồ Bắc. Thời đương quyền, Tăng Quốc Phiên cũng cảm thấy khó khăn chỉ huy Hoài quân ; đến Lý Hồng Chương kế vị, quân Tương, Hoài lại càng chia rẽ. Tháng 6, Ðông Niệm từ Hồ Bắc tiến quân nhanh trong vòng 8 ngày đến Sơn Ðông, giao chiến với quân Lý Hồng Chương tại Giao Lại hà [Jiaolai river, Sơn Ðông] bị thua, mất phần lớn quân tinh nhuệ. Tháng 1/1868, Lại Văn Quang bị bắt, dẹp xong toàn bộ Ðông Niệm.

Sau khi Tây Niệm Trương Tông Vũ vào tỉnh Thiểm Tây, đại phá quân Thanh tại vùng phụ cận Tây An [Xian, Thiểm Tây]. Nhân bị áp lực của Lưu Tùng Sơn, Tương quân, cùng Tổng đốc mới đáo nhiệm Tả Tông Ðường ; bèn di chuyển lên phía bắc Thiểm Tây. Rồi Tây Niệm tìm cách liên lạc với Hồi nhưng không thành, bèn vượt sông Hoàng Hà về phía đông đến tỉnh Sơn Tây, Trực Lệ, mưu tăng viện cho Ðông Niệm. Tháng 2/1868 đến gần Bảo Ðịnh [Baoding, Hà Bắc], kinh sư chấn động. Quan binh hơn 10 vạn, không chặn được quân Niệm thoán vượt, các tướng lãnh nhìn ngó nhau không hành động kịp thời, quân lính nhiễu dân, “ dân thù quan binh hơn thù giặc ”. Hơn nữa hiệu lệnh bất nhất, Tả Tông Ðường thống binh Trực Lệ, ngoài Tả ra còn có hai viên Quân cơ đại thần ; Lý Hồng Chương tiết chế quân Sơn Ðông, ngoài Lý ra còn có 2 vị Tuần phủ ; riêng Tả, Lý cũng không hòa hợp. Niệm tiến đến ngoài thành Thiên Tân, rồi quay xuống Sơn Ðông, mấy lần đánh Vận Hà. Vào tháng 7/1868 đến biên giới hai tỉnh Trực Lệ, Sơn Tây, trời mưa mấy ngày như trút nước, cả vùng biến thành biển hồ, quân kỵ không hoạt động được ; bị Hoài quân vây khốn tại vùng tây bắc tỉnh Sơn Ðông, Trương Tông Vũ nhảy xuống sông chết, bình định được Tây Niệm. 

Từ năm 1864 đến 1868, quân Niệm rong ruổi trong 8 tỉnh : An Huy, Hà Nam, Giang Tô, Sơn Ðông, Hồ Bắc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Trực Lệ ; sau khi làm tổn thất Tương, Hoài cùng quân các tỉnh, mới được đãng bình. Tuy quân Niệm thiện chiến, thực do quan binh khí lực suy vi. Hoài quân là lực lượng chủ lực đánh Niệm, thì kiêu căng buông thả, chỗ dựa chính nhờ pháo Tây đương. Niệm loạn bình, đảng Thái bình Thiên quốc mới được cho là hoàn toàn bị tiêu diệt; kể từ thời cử sự tại Quảng Tây cho đến lúc này là 19 năm.


1 Lúc mới khởi sự tại Kim Ðiền, Hồng Tú Toàn 37 tuổi, Phùng Vân Sơn bạn học cùng trang lứa ; Lý Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Vi Chính đều trên dưới 20 tuổi ; Tần Nhật Cương trên 20 tuổi.


2 Giáp hột (hạt) : thời gian nằm giữa hai mùa lúa, thời điểm thiếu lương thực trong năm.


3 Ngôn quan : quan chuyên về thanh tra để tâu lên triều đình, còn gọi là Ngự sử.
VI. Loạn lạc tại miền tây nam và tây bắc Trung Quốc

Hai triều đại Hàm Phong, Ðồng Trị có nhiều loạn lạc xẩy ra. Ngoại trừ Thái Bình Thiên Quốc tung hoành nam bắc ; quân Niệm và Bạch Liên Giáo xuất hiện tại lưu vực các sông Hoàng, Hoài, Thiên Ðịa Hội tại Ðài Loan, Phúc Kiến ; riêng các nơi hoang dã xa xôi tại miền tây nam, tây bắc loạn lạc cũng nhiều lần xẩy ra. Trong vòng 20 năm, các mối loạn này, không nhiều thì ít đều chịu ảnh hưởng của Thái Bình Thiên Quốc.

1. Quân Mèo và các Giáo phái tại Quý Châu

Tại Quý Châu người Hán và Mèo sống lẫn lộn, đất xấu dân nghèo ; thuế thu được chỉ bằng một huyện lớn của tỉnh Chiết Giang. Người Mèo cường ngạnh, được coi là khó trị. Từ khi chính sách “ Cải thổ quy lưu ” ban hành 1, quan lại tham bạo bắt người Mèo cung ứng phục dịch, người Hán xâm phạm đất đai, ham lợi bóc lột, sinh kế người Mèo trở nên khốn cùng, bèn vác giáo vào rừng, cậy hiểm chống cự. Người Mèo thường nói rằng “ Bọn ta không biết như thế nào gọi là phản, cứ mang binh đến thì đánh, cư xử tốt thì theo, đói thì cướp, giận thì giết. Ta không quấy nhiễu quan, thì quan cũng quấy nhiễu ta, chỉ có ai mạnh thì thắng mà thôi ” ; đó là nguyên nhân gây sự của dân Mèo. Trước kia quan quân thường dùng vũ lực để áp bức, kể từ khi Thái Bình Thiên Quốc nổi lên, quân binh phải điều đi nơi khác, lương hướng tiếp tế không đến, trị an không giữ được. Do đó các cuộc nhiễu loạn dấy lên, thường gọi là “ Miêu loạn ” nhưng thực sự còn có cả người Hồi, và Hán ; duy người Miêu hay Mèo là chủ yếu.

Năm 1855, người Mèo nổi loạn tại phía đông tỉnh Quý Châu, thủ lãnh là Trương Tú Mi ; Bạch Liên Giáo do người Hán lãnh đạo rầm rộ hưởng ứng. Bạch Liên Giáo có nhiều loại, phân biệt bởi màu sắc khăn đội đầu, y phục, hoặc cờ ; có Hồng hiệu, Hoàng hiệu, Thanh hiệu, Bạch hiệu, nên các quan lại quen gọi là “ Hiệu phỉ ” ; ngoài ra còn có Ðăng Hoa Giáo, Thái Bình Giáo. Trong số đó Hồng hiệu, Hoàng hiệu, Bạch hiệu tương đối lớn, phân bố tại hàng chục huyện thuộc miền đông và đông bắc Quý Châu ; sau khi liên kết với giặc Mèo, thì man diên khắp tỉnh, số lượng đến mấy chục vạn người. Năm 1860, một bộ phận của Thạch Ðạt Khai đến phía nam Quý Châu, phối hợp với quân Mèo đánh Quý Dương [Guiyang, Quý Châu]. Triều Thanh sai Tương quân đến cứu viện, quân Mèo và các Giáo phái nghe quan quân đến thì lẩn trốn, lúc đi qua rồi thì tụ tập lại. Sau khi bình định xong Thái Bình Thiên Quốc ; theo lời bàn của Tăng Quốc Phiên, triều đình mệnh Tuần phủ Hồ Nam [Hunan] thống lãnh việc đánh dẹp, có Tương quân tại Tứ Xuyên [Sichuan] tiếp ứng. Năm 1867 Tương quân tây lộ bình định miền tây bắc Quý Châu, năm 1868 Tương quân đông lộ công phá căn cứ địa Bạch Liên Giáo tại Thạch Thiên [Shiquian, Quý Châu]. Năm 1869 quân Mèo đại bại Tương quân đông lộ, nhưng vì đánh nhau lâu không có lương nên thế lực suy sụp. Năm 1871, 1872, Tương quân mấy lần thắng. Tháng 5/1872, Tương quân chiếm cứ các căn cứ địa của quân Mèo và Giáo phái tại Thai Củng [Taigong, Quý Châu] và Khải Lý [Kaili, Quý Châu], Trương Tú Mi bị bắt, số hàng hơn 10 vạn, bị giết khoảng hơn 2 vạn ; toàn bộ Quý Châu được bình định. Dân Mèo còn lại khoảng 2/10, các thành quách ruộng rẫy biến thành đất hoang, trai tráng Mèo chết gần hết ; người Hán cũng lưu ly không có chỗ ở, số chết gần một nửa.

2. Quân Hồi, Hán tại Vân Nam chống Mãn Thanh

Sự biến loạn tại Vân Nam tương tự như Quý Châu ; khởi đầu tại Quý Châu dân Mèo và Hán xung khắc, tại Vân Nam, Hán, Hồi cừu hận. Dân Hồi có trình độ tổ chức tín ngưỡng, ý thức dân tộc mạnh, sống lẫn lộn với người Hán ; phong tục khác nhau, quyền lợi xung khắc, dễ đâm ra thù hận, rồi lập đảng tranh giành. Người Hồi dựa vào số đông đồng lòng, thường đóng tiền bảo trợ, gặp việc bất thường giúp đỡ nhau ; người Hán cũng có tổ chức đoàn luyện tự vệ, mỗi người đóng “ bảo gia tiền ” 2. Pháp lệnh quy định trị tội nặng người Hồi phạm pháp, mỗi khi có tranh chấp thì quan lại thường bênh vực người Hán ; người Hồi bất bình, tìm cách báo phục. Vào năm 1845, tại Bảo Sơn [Baoshan] phía tây Vân Nam, Hồi và Hán tranh đấu, quan quân giúp người Hán đánh Hồi, khiến dân Hồi chết hơn 4 000 người. Các xứ Hồi khác kế tiếp nổi lên, giết người đốt nhà, kéo dài không bình định được. Năm 1847 Lâm Tắc Từ giữ chức Tổng đốc Vân Quý, tiễu trừ loạn Hồi, cũng trừng trị những người Hán gây sự ; trong vòng 7 năm được yên ổn.

Người có uy tín với dân tộc Hồi tại Vân Nam, là chưởng giáo Mã Ðức Tân tại Ðại Lý [Dali, Vân Nam], Mã đã từng viếng thánh địa Hồi giáo ; Ðỗ Văn Tú, Mã Như Long đều là môn đồ. Ðỗ Văn Tú vốn là Tú tài người đất Bảo Sơn, có tài lược ; trong vụ biến loạn tại Bảo Sơn đã đích thân đến Bắc Kinh khống tố, nghe biết nhiều, nên xem thường triều đình nhà Thanh. Mã Như Long là Vũ sinh tại Lâm An [Linan, Vân Nam], dõng cảm ưa chiến đấu.

Năm 1854 mối loạn khuyếch trương, người Hồi giết quan binh, người Hán giết người Hồi ; Mã Ðức Tân hô hào dân Hồi bao vây Côn Minh [Kunming, Vân Nam], hàng ngàn dân Hồi trong thành bị giết. Phía tây Vân Nam, loạn kế tục nổi lên ; một nhánh do Lý Văn Học lãnh đạo người Hán, người Di 3 chiếm cứ huyện Nhĩ Ðộ [Midu, Vân Nam], hô hào “ diệt quan lại Mãn Thanh tham ô, tiêu trừ chủ trang trại người Hán ” ruộng đất trả lại cho dân nghèo, không phân biệt Di, Hán.

Cũng vào tháng 9/1854, Ðỗ Văn Tú lãnh đạo dân Hồi chiếm đoạt Ðại Lý [Dali, Vân Nam], để tóc dài, thay y phục, tự xưng tổng thống binh mã đại Nguyên soái. Ðỗ biết rằng người Hán đông, Hồi ít ; muốn thành đại sự nghiệp phải liên kết với Hán và Di, thừa nhận “ Ba giáo (Hồi, Hán, Di) đều là căn bản và có chỗ đúng cùng đồng kinh doanh chung sự nghiệp, phải cư xử cùng một lòng nhân”, “Xuân thu tế tự Khổng Tử, dùng tiền vải cấp cho dân nghèo ; các chức trấn địa phương Hồi, Hán cùng nhiệm vụ ; tiếp đãi tân khách, Hồi, Hán cùng ngồi chung chiếu.” Về quan chức thuộc cấp, người Hán chiếm hơn một nửa ; quân lính Hán binh chiếm 7, 8 phần ; Hồi binh chiếm 2, 3 phần. Ðỗ bảo rằng việc cử binh “ Do Mãn Thanh chiếm cứ đất Trung Hạ của chúng ta, tổn thương đồng bào, diệt dân Hồi ” mong muốn Hồi, Hán đồng tâm, diệt trừ mối quốc nhục. Như vậy ngoại trừ tôn giáo không giống nhau, lập trường chống Mãn Thanh cũng tương tự với Thái Bình Thiên Quốc.

Do sự quan trọng về địa lý, thời kỳ mở đầu địa vị của Ðỗ Văn Tú không bằng Mã Như Long. Lực Lượng của Mã Như Long cách Côn Minh không xa, có thể trực tiếp uy hiếp tỉnh thành. Năm 1857, Côn Minh hai lần bị vây, Tổng đốc Hằng Xuân tự tử, dân chết đói đến hàng vạn. Triều đình nhà Thanh bèn đổi sang chính sách chiêu phủ, cho Mã Ðức Tân được quản lý các nơi thờ phượng đạo Hồi, gọi là Thanh Chân Tự ; nên lực lượng tấn công của người Hồi tự rút lui. Năm 1859 quan quân hai lần tây chính, Ðỗ Văn Tú không chống nổi. Năm sau Mã Như Long đánh Côn Minh, quân tây chinh trước sau đều thụ địch. Mã Như Long và Ðỗ văn Tú họp bàn, đồng ý ai chiếm được Côn Minh người đó được tôn lên cầm đầu, riêng thuế khóa thì chia hai. Mã mấy lần đánh thành, nhưng Ðỗ không tương trợ, lại còn chiếm tiền thuế muối, nên Mã tỏ ra bất bình. Lương thực quân Mã không đủ, lại bị đoàn luyện phối hợp với quan quân chống cự, không lấy được Côn Minh, nên rất khó mà thành công. Năm 1862, qua sự vận động của Sầm Dục Anh, Tuần phủ Vân Nam chiêu phủ được Mã Như Long, đây là bước chuyển biến lớn trong việc dẹp loạn tại nơi này.

Sầm Dục Anh nguyên là Thổ ty đất Tây Lâm [Xilin, Quảng Tây], năm 1856 mộ quân đến tỉnh Vân Nam, từng giữ chức Tri huyện, rồi Tri phủ ; sau khi Mã Như Long đầu hàng, được phong quyền Bố chánh tỉnh Vân Nam. Mã Ðức Tân muốn giữ chức Bình nam vương, nhưng không toại nguyện ; năm 1863 sai Mã Vinh, lãnh tụ quân Hồi lộ phía đông, tập kích Côn Minh, giết Tổng đốc Phan Phong. Sầm Dục Anh liên kết với Mã Như Long đánh đuổi Mã Vinh, từ đó Mã Ðức Tân không còn thực lực. Mã Như Long mấy lần khuyên Ðỗ Văn Tú quy thuận, nhưng Ðỗ ở thế cưỡi cọp, cho rằng nếu không thành được việc lớn thì cũng tìm yên trong phạm vi nhỏ. Năm 1857, Ðỗ thừa lúc Sầm Dục Anh tại viễn đông, bèn mang quân đông tiến, chiếm cứ các thành trì xung quanh Côn Minh. Nếu chỉ riêng tình hình Vân Nam mà bàn thì rất nguy ngập, nhưng nhìn chung toàn cuộc thì quan quân đã bước vào hoàn cảnh tốt. Việc dẹp quân Niệm tại phía bắc sông Trường Giang đã đi vào hồi cuối, triều đình Bắc Kinh dùng Tương quân đánh Quý Châu, quân từ Tứ Xuyên đánh dẹp tại Vân Nam. Năm 1868 giao cho viên cầm quân Tương quân phụ trách bình định phía tây Quý Châu là Lưu Nhạc Chiêu làm Tổng đốc Vân Quý, Sầm Dục Anh làm Tuần phủ Vân Nam. Sầm trở về cứu viện tỉnh thành, Lưu củng cố hậu phương, các tỉnh hiệp lực chuyển lương thực đến. Sầm lại thi hành chính sách phân hóa, thuyết phục viên đại tướng người Hán của phe Ðỗ là Lý Phương Viên quy hàng ; quân Ðỗ Văn Tú đại bại, vùng xung quanh tỉnh thành được tảo thanh.

Vân Nam giáp giới Việt Nam và Miến Ðiện, thế lực Pháp, Anh hiện diện tại các nước này tìm cách gây ảnh hưởng. Nhà truyền giáo nước Pháp, P. Fenouil [Cao Ty Phong] giúp Sầm Dục Anh, Mã Như Long chế đạn dược ; tên buôn súng người Pháp, Jean Dupuis [Ðồ Phổ Nghĩa], giúp họ mua và chuyển vận vũ khí cùng lập xưởng chế tại pháo, lại có võ quan Pháp giúp huấn luyện. Người Anh, tên Edward B. Sladen [Tư Lai Ðăng] từ Miến Ðiện đến vùng biên giới tại Ðằng Việt [Tengchong, Vân Nam] buôn bán. Ðỗ Văn Tú cũng mở cửa hàng tại Miến Ðiện, nên quân Ðỗ cũng có súng Tây phương, nhưng không bằng Sầm và Mã. Sau khi thu phục xong miền phụ cận tỉnh thành Côn Minh, bèn viễn chinh sang phía tây, vùng Ðại Lý do Ðỗ kiểm soát lâm vào thế nguy. Năm 1871, Ðỗ sai sứ đến Luân Ðôn, xin viện trợ nạp cống xưng thần, nhưng vô hiệu quả. Tháng 12/1872 Sầm Dục Anh đánh chiếm Ðại Lý, Ðỗ Văn Tú tự tử, quân Hồi đầu hàng, hơn 3 vạn người bị giết, Lý Văn Học binh bại cũng bị bắt, bộ phận của Sầm khắc phục Ðằng Việt, loạn Vân Nam trong vòng 18 năm được bình định.

3. Hồi giáo tại Thiểm Tây, Cam Túc

Thiểm Tây, Cam Túc có những khu vực Hán, Hồi sống lẫn lộn với nhau. Năm 1862, Thái Bình Thiên Quốc vào tỉnh Thiểm Tây, các nhóm người Hồi tại Quan Trung [Guanzong, Thiểm Tây] cùng nổi lên quấy nhiễu. Dọc theo sông Vị Hà mấy trăm dặm chiến tranh tiêu thổ, dân Hồi tại phía tây cùng tỉnh Cam Túc rầm rộ hưởng ứng. Triều Thanh ra lệnh Ða Long A cùng Bảo Thắng mang quân từ các tỉnh Hà Nam, An Huy đến tăng viện. Bảo Thắng hành quân thất lợi, bị cách chức trị tội. Năm sau [1863] Ða Long A tảo thanh đông lộ, giải vây Tây An [Xian, Thiểm Tây], rồi tiếp tục đánh dẹp miền tây, chém giết nhiều, người Hồi rút lui về tỉnh Cam Tủc.

Tại Cam Túc có hai phái Hồi, tân giáo và cựu giáo ; triều đình bảo trợ cựu giáo ; riêng Mã Hóa Long là thủ lãnh tân giáo, từng liên lạc với Hồi tại Vân Nam. Năm 1861, loạn bắt đầu xẩy ra tại Tây Ninh [Xining, Thanh Hải] , đứng đầu là Mã Quế Nguyên. Năm sau loạn tại Thiểm Tây bùng nổ lớn, Mã Hóa Long nổi dậy tại Ninh Hạ [Ningxia] , khống chế cả miền Lũng bắc , Lũng đông. Tiếp theo, Mã Chiêm Vụ chiếm cứ vùng Hà Châu [Hezhou, Cam Túc], Mã Văn Lộc chiếm vùng Túc Châu [Suzhou] ; toàn tỉnh Cam Túc chỉ còn lại vài châu. Loạn tại Vân Nam do Hồi, Hán liên hợp ; ngược lại tại Cam Túc do bởi Hồi, Hán tương tranh. Cam Túc vốn thiếu lương, lại thêm loạn lạc nên canh nông bị phế bỏ ; kỵ binh Hồi ra vào vùng Lũng tây, Lũng đông chặn cướp lương thực tiếp tế, quan binh mấy lần bị đánh bại. Triều Thanh bất đắc dĩ phải giao cho Dương Nhạc Bân, thuộc Tương quân, làm Tổng đốc. Dương vốn chỉ huy thủy sư, dùng sai sở trường, nên không thi thố được gì. Từ năm 1866-1867 quân Niệm từ phía tây đến, Hồi tại Thiểm Tây lại dấy lên, nổi danh có Mã Nhan Hổ cấu kết với Mã Hóa Long, Ðổng Phúc Tường tại Cam Túc ; nên Tả Tông Ðường được cử đến để thay thế Dương Nhạc Bân.

Chiến lược của Tả Tông Ðường “Cần đánh Niệm gấp, đánh Hồi có thể hoãn ; nhắm tảo thanh vùng đất gan ruột, khiến quan binh không có mối lo bị đánh phía sau, và tiếp tế không bị ngăn trở ”. Năm 1868, Tả từ Thiểm Tây, mang quân trở về đông, đánh dẹp tây Niệm ; sau khi tây Niệm đãng bình, lại quay trở về Tây An. Việc dụng binh tại vùng tây bắc, gặp khó khăn vì không thể tự cung cấp ; tuy rằng Tả có đề ra sách lược “ Vừa phòng, vừa tiễu, vừa đánh, vừa canh tác ”, nhưng đem thực hành thì không dễ. Bởi vậy Tả phải nhờ các tỉnh phía đông tiếp tế, cùng vay nhà buôn ngoại quốc 340 vạn lượng do hải quan đảm bảo trả, để mua súng. Trước tiên Tả bình định giặc tại phía bắc Thiểm Tây, hàng Ðổng Phúc Tường, rồi đánh phá Hồi tại phía đông Cam Túc.

Năm 1869, quân Tả Tông Ðường tiến đánh đồn Kim Tích tại Ninh Hạ. Ðồn Kim Tích gồm 400 tòa nhà, phía bắc đến Mông Cổ, thông thương với nước Nga, là nơi thâu nhập hàng hóa Tây phương cùng pháo súng. Lực lượng Hồi liều mình ra sức đánh, quân Tả Tông Ðường không hạ được, Ðại tướng Lưu Tùng Sơn trận vong. Tháng 1/1871 Mã Hóa Long lương hết, xin hàng, bị xử lăng trì ; Hồi tại Cam Túc tan rã. Năm 1872-1873, Hồi tại Hà Châu và Tây Ninh hàng, năm 1873, Tả Tông Ðường thu phục Túc Châu, giết hơn 7000 người Hồi. Ðây là giai đoạn một cuộc tây chính của Tả Tông Ðường, giai đoạn thứ hai sẽ tiến quân đến Tân cương.

4. Cuộc viễn chinh của Tả Tông Ðường

Trước khi các tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc được bình định, triều đình không đủ sức lo đến tỉnh Tân Cương [Xinjiang], sau khi khắc phục được Túc Châu [Suzhou, Cam Túc], Tả Tông Ðường xin xuất quân ; chiếu chỉ chấp nhận tây tiến. Vào thời gian này Nhật Bản xâm phạm Ðài Loan ; Lý Hồng Chương lúc bấy giờ giữ chức Tổng đốc Trực Lệ kiêm nhiệm việc ngoại giao, nhận định rằng Nhật Bản là mối lo lớn của Trung Quốc, chủ trương tạm đình tây chinh, chuẩn bị cho việc phòng biển. Lý Hồng Chương lập luận căn cứ theo thời thế, cùng kinh tế. Cho rằng bình định Tân Cương phí tổn trên 300 vạn lượng, nếu lấy được cũng không đáng gíá ; huống Tân Cương nằm trong vùng ảnh hưởng của Anh, Nga, và các nước Hồi khác nên rất khó giữ ; Ðầu mục Hồi, A Cổ Bách, sẽ liên lạc với Anh, Nga, không để cho Trung Quốc đắc chí. Trước mắt binh lực, tài lực không đủ ; nếu dính dấp vào sợ sinh ra biến cố khác ; chỉ nên nghiêm phòng biên giới hiện hữu, tìm cách chiêu phủ Ðầu mục Hồi, công nhận cho tự trị. Lý nhấn mạnh “ Tân Cương không phục tùng, nguyên khí Trung Quốc không tổn thương ; nếu biên giới tại biển không phòng, thì mối lo sâu đến gan ruột.”

Riêng Tả Tông Ðường có ý kiến rằng trước mắt việc phòng biển chưa đến nỗi khẩn cấp, nếu dừng binh cố thủ vẫn không bớt tiêu phí, mà cũng chẳng có ích cho việc phòng biển ; nhưng ngược lại phá vỡ rào dậu biên cương tại phía tây. Trung khu Ðại thần Văn Tường rất tán thành lời bàn này, nên vào tháng 5/1875 triều đình mệnh Tả Tông Ðường lo liệu việc quân tại Tân Cương. Tả Tông Ðường tâm sự rằng ở tuổi 65 vẫn cương quyết đảm nhiệm chức vụ gian nan này, vì ông nhận thức rằng đây là tiền đồ của việc quốc phòng “ Thời thịnh của Trung Quốc đều vững tại miền tây bắc, đến lúc suy thường mất miền tây bắc trước ; chỉ lo giữ đông nam là lúc thế nước yếu, đợi đến ngày suy vong ” ; lại nói “ Vững Tân Cương để giữ Mông Cổ, giữ Mông Cổ để bảo vệ kinh sư.”

Tả Tông Ðường kinh doanh miền tây bắc, toàn nhờ các tỉnh đông nam tiếp tế, quan trọng là Thượng Hải, Quảng Châu. Lệnh vua mỗi năm phối hợp điều 500 vạn lượng, nhưng thực tế đưa đến khoảng dưới 300 vạn lượng. Nhân vì đường xa, vận tải khó khăn nên không muốn dùng quá nhiều quân, bèn cho thải người yếu, giữ người khỏe, tổng cộng khoảng 7 vạn quân, một bộ phận dùng súng Tây dương, mua từ Thượng Hải.

Vào tháng 4/1876 quân Tả Tông Ðường từ Lan Châu [Lanzhou, Cam Túc] tiến tới Túc Châu, với chiến lược hoạch định sẵn “ Chuẩn bị chậm, nhưng đánh nhanh ”. Riêng A Cổ Bách lợi dụng quân Hồi Thiểm Tây giữ miền bắc lộ, còn quân chủ lực thì giữ nam lộ. Vào tháng 8 quân của Tả đại phá Bạch Nhan Hổ rồi thừa thắng thu phục Ô Lỗ Mộc Tề [Urumqi, Tân Cương]. A Cổ Bách bèn tập trung quân tại A Lỗ Phiên [Turpan, Tân Cương], năm sau lại thất bại. Vào tháng 5/1877, A Cổ Bách chết, quân Hồi xẩy ra nội loạn rồi đi đến sụp đổ. Tháng 12, con của A Cổ Bách trốn vào nước Nga ; tỉnh Tân Cương bị mất trong vòng 13 năm, được Tả Tông Ðường thu phục.

Tả Tông Ðường thành công do bởi các yếu tố sau đây : Thứ nhất, A Cổ Bách tuy thiện chiến nhưng binh lực tài lực không đủ, dân Hồi bị vơ vét nhiều nên trong lòng ly tán. Thứ hai, cuộc nổi dậy không được cấp ngoại viện một cách thiết thực ; nước Anh lo rằng nước Nga sẽ can thiệp, nên chỉ giao thiệp ngoại giao cùng cung cấp vật tư tượng trưng. Nước Nga từng giúp cho vũ khí, nhưng sau thấy thế thua của Hồi đã rõ, lại bận việc binh tại Thổ Nhĩ Kỳ, nên không muốn sa vào cuộc tranh chấp tại Tân Cương. Thứ ba, Tả Tông Ðường ý chí quả quyết, kế hoạch chu mật, được Thanh triều cực lực chi trì. Tương quân chủ tướng Lưu Cẩm Ðường giỏi dụng binh, cuối cùng thì đạo quân Tương Ðàm sinh trưởng từ vùng lúa, cá Hồ Bắc, Hồ Nam, dương oai diễu võ thành công tại vùng gió cát, ruộng đá nơi tây bắc.

Tổng quan về binh họa và sự thay đổi cơ cấu quân sự trong 28 năm chiến tranh

Từ năm 1850 đến 1878, Trung Quốc trải qua cơn biến loạn hoặc toàn bộ, hoặc cục bộ; nhân dân phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về sinh mệnh tài sản. Vùng đất trù mật thuộc lưu vực sông Trường Giang là nơi quân Thái Bình Thiên Quốc và quân Thanh qua lại tranh đoạt nhiều lần; nếu tính thời gian tỉnh Hồ Nam phải chịu đựng chiến tranh 4 năm, Hồ Bắc khoảng 5 năm, Giang Tây 8 năm, An Huy, Giang Nam 12 năm, Chiết Giang khoảng 5 năm. Ngoài ra các tỉnh khác thì Quảng Ðông, Quảng Tây chịu binh hỏa lâu nhất ; thứ đến Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Tân Cương, Cam Túc, Hà Nam, Thiểm Tây, Sơn Tây, Trực Lệ ; tỉnh chịu đựng nhiều khoảng 7,8 năm ; ít thì 2,3 năm.

Tiêu biểu, Chiết Giang trước kia là tỉnh no ấm, bị chết đói và binh đao quá nửa. Hàng Châu vốn được gọi là thiên đường, cư dân trên 80 vạn giảm xuống còn vài vạn. Vùng Giang Tây mấy trăm dặm “ không nghe tiếng chó kêu, gà gáy ; chỉ thấy dân chết đói bên đường ”. Tăng Quốc Phiên nói “ Bị hại bởi giặc khoảng bảy tám phần, bị hại bởi binh khoảng hai, ba phần ” ; với cái nhìn công bằng có thể nói mỗi bên gây hại một nửa. Cứ theo thống kê của quan, dân số tỉnh Giang Tô năm 1851 ước 44 triệu 30 vạn, tỉnh Chiết Giang 30 triệu ; sau loạn vào năm 1874 dân tỉnh Giang Tô dưới 20 triệu, Chiết Giang còn chưa đến 11 triệu ; nếu thống kê này có thể tin được thì dân số hai tỉnh đã giảm xuống khoảng hơn 40 triệu, từ đó có thể suy ra toàn quốc, số lượng chết về binh hỏa, chết đói, thật khủng khiếp !

Ðại loạn ảnh hưởng rất lớn đến chính trị, quân sự. Ðiều hiển nhiên dễ thấy là quân chính quy nhà Thanh bị suy sụp, thay vào đó là luyện dõng địa phương như Tương quân, Hoài quân ; hoặc lực lượng vũ trang của tư nhân như quân của Sầm Dục Anh tại Vân Nam. Bát kỳ của Mãn Thanh chỉ còn tên gọi, Lục kỳ quân Hán cũng hủ hóa ; sau hai lần thất bại lớn tại Giang Nam, quân chính quy hầu như suy sụp đến toàn bộ. Thay vào đó Tương quân bảo vệ Hồ Nam, tảo thanh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy, Chiết Giang ; Hoài quân cùng Tương quân hợp tác bình định Giang Nam, Phúc Kiến và quân Niệm tại phía bắc Trường Giang. Còn như việc bình định vùng tây nam, tây bắc như Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Cam Túc, Tân Cương đều do Tương quân đảm trách. Nói tóm lại trong thời gian 20 năm dẹp loạn, không chỗ nào mà không nhờ đến quân Tương, Hoài ; nhờ đó vận mệnh triều Thanh kéo dài được thêm 50 năm nữa.

Triều Thanh đã dựa vào quân Tương, Hoài để tiễu bình nạn lớn, Tương quân tham chiến trong 18 tỉnh, Hoài quân được điều động tại hạ lưu sông Trường Giang và Hoàng Hà ; quân Tương, Hoài được lưu lại tại các tỉnh quan trọng để phòng giữ, trở thành những đơn vị mạnh, được gọi là “ dõng doanh ”. Vì Lục doanh chỉ đặt cho có lệ mà không thu được hiệu quả, nên các tỉnh, bắt đầu từ Trực Lệ, phỏng theo quân Tương, Hoài để cải cách quân binh này về lãnh vực huấn luyện và biên chế. Thực ra thì Lục doanh và Tương, Hoài đều có những điều hay dở. Lục doanh thì quan được điều bổ đến, lính người địa phương, là quân đội quốc gia, quân không do tướng tuyển dụng ; quan không giữ chức lâu, lính do cha truyền con nối ; không được huấn luyện, tâm chí bất đồng. Khi gặp việc thì chinh điều tuyển mộ, lính với lính không thân quen, tướng với quân không hiểu biết, nên không đoàn kết, chỉ huy không hiệu nghiệm, thì khó có thể nói chuyện chiến đấu. Quân Tương, Hoài trên dưới một lòng, như cha anh và con em “ Tướng và lính thân mật, mọi người nức lòng bảo hộ kẻ đứng đầu ; tướng còn thì quân vững, tướng mất quân tan” tạo thành một tổ chức lợi hại, người người đều liều mình. Ðiều tệ hại là vũ lực của quốc gia biến thành phương tiện của tư nhân.

Từ năm 1860 trở về trước, phần lớn Tổng đốc, Tuần phủ xuất thân từ Bát kỳ Mãn Thanh, sau khi hai doanh lớn tại Giang Nam thất thủ, số lượng giảm dần, cuối cùng chỉ còn lại 1 hoặc 2 %. Thay vào đó các nhân vật thuộc hệ thống Tương, Hoài được bổ dụng tại phần lớn các tỉnh. Lực lượng này không chỉ lớn mạnh tại địa phương mà còn ảnh hưởng đến trung ương ; tuy rằng trên giấy tờ triều đình có quyền bổ nhiệm hoặc truất phế các quan lại địa phương, nhưng gặp những việc lớn cũng phải tham khảo, tôn trọng ý kiến của họ.

Hồ Bạch Thảo 



(nguồn: diendan.org)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét