Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Cộng đồng tình báo Mỹ...

Cộng đồng tình báo (IC) Mỹ gồm 17 cơ quan, tổ chức.

IC là một liên minh gồm 17 cơ quan và tổ chức thuộc chính quyền hành pháp, hoạt động vừa độc lập, vừa phối hợp để thu thập tin tức tình báo cần thiết để tiến hành quan hệ đối ngoại và các hoạt động an ninh quốc gia. Sứ mệnh chủ yếu của IC là thu thập và truyền đạt những thông tin thiết yếu mà Tổng thống Mỹ và các nhà hoạch định chính sách, lực lượng thực thi pháp luật và quân đội cần có để thực thi các trách nhiệm của họ. 

17 thành viên của IC là:•    Cục Tình báo Không quân (Air Force Intelligence)
•    Tình báo Lục quân (Army Intelligence)
•    Cục Tình báo Trung ương (Central Intelligence Agency)
•    Cục Tình báo Lực lượng Bảo vệ bờ biển (Coast Guard Intelligence)
•    Cục Tình báo Quốc phòng (Defense Intelligence Agency)
•    Bộ Năng lượng (Department of Energy)
•    Bộ An ninh nội địa (Department of Homeland Security)
•    Bộ Ngoại giao (Department of State)
•    Bộ Tài chính (Department of the Treasury)
•    Cơ quan Phòng chống ma túy (Drug Enforcement Administration)
•    Cục Điều tra liên bang (Federal Bureau of Investigation)
•    Cục Tình báo Thủy quân lục chiến (Marine Corps Intelligence)
•    Cục Tình báo Không gian địa lý (National Geospatial-Intelligence Agency)
•    Cục Trinh sát quốc gia (National Reconnaissance Office)
•    Cục An ninh quốc gia (National Security Agency)
•    Cục Tình báo Hải quân (Navy Intelligence)
•    Văn phòng Giám đốc Tình báo quốc gia (Office of the Director of National Intelligence)

Các thành viên IC thu thập và đánh giá thông tin liên quan đến các hoạt động khủng bố và ma túy; các hành động thù địch khác từ phía các quốc gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài và điệp viên cảu họ; và hoạt động tình báo nước ngoài chống lại nước Mỹ. Khi cần, Tổng thống Mỹ có thể chỉ thị IC tiến hành các hoạt động đặc biệt để bảo vệ lợi ích an ninh của Mỹ chống các mối đe dọa bên ngoài.

Cộng đồng tình báo Mỹ (IC) rất rộng lớn với 17 cơ quan, tổ chức hoạt động trong màn bí mật.

Việc giám sát tất cả các cơ quan này nhìn chung do Bộ Quốc phòng hay Quốc hội Mỹ thực hiện, nên người dân Mỹ bình thường ít biết chính xác về việc chúng hoạt động như thế nào.

Trước khi cựu nhân viên CIA và NSA Edward Snowden tiết lộ những thông tin mật, người ta biết rất ít về ngân sách, nhiệm vụ hay khả năng của các cơ quan tình báo Mỹ.

Hiện nay, mấy tháng sau khi Snowden bắt đầu công khai tiết lộ bí mật của tình báo Mỹ và nhiều bí mật hàng đầu bị tố giác, chúng ta đã biết nhiều hơn về IC.

Cục Tình báo Trung ương CIA do thám các chính phủ nước ngoài và tổ chức các chiến dịch ngầm.
CIA là cơ quan tình báo nổi tiếng nhất của Mỹ, được thành lập theo đạo luật An ninh quốc gia năm 1947. CIA bắt nguồn từ Cục Hoạt vụ chiến lược OSS (Office of Strategic Services) thời Thế chiến II.

Trụ sở: Langley, Virginia.
Nhiệm vụ: CIA thu thập, phân tích và phổ biến tin tình báo thu thập về các nước. Những tin tức này được thu thập từ các nguồn tín hiệu và điệp báo.
Ngân sách: 14,7 tỷ USD. CIA tiêu nhiều kinh phí nhất trong IC, chiếm 28% tổng ngân sách của IC.
Quân số: 21.459 nhân viên dân sự.

Cục An ninh quốc gia NSA từng là cơ quan bí ẩn đến nỗi người ta gọi nó là “No Such Agency”, nghĩa là “Không có một cơ quan như thế” 

Trụ sở NSA tại Fort Meade, Maryland
NSA được thành lập vào năm 1952 với nhiệm vụ chủ yếu là mã thám, sau những thành công của phe đồng minh trong việc giải phá các loại mật mã của Đức và Nhật Bản trong Thế chiến II. Trong một thời gian dài, NSA, cơ quan hoạt động dưới quyền quản lý của Bộ Quốc phòng Mỹ, đã không được thừa nhận ngay cả bởi chính phủ Mỹ mà chỉ nói là “No Such Agency”, tức là “Không có một cơ quan như vậy”.

Trụ sở: Fort Meade, Maryland.
Nhiệm vụ: Những chức năng chính của NSA là tình báo tín hiệu (SIGINT), tức là chặn thu và xử lý thông tin liên lạc của nước ngoài, mật mã, giải phá mật mã và bảo mật thông tin (ngăn chặn tin tặc nước ngoài lấy trộm thông tin mật).
Ngân sách: 10.8 tỷ USD.
Quân số: Gần 35.000 người, bao gồm cả các đơn vị mã thám trong các quân chủng của quân đội Mỹ.

Cục Tình báo Quốc phòng DIA hoạt động để hiểu các quân đội nước ngoài sẽ làm gì trước khi họ làm điều đó.

DIA được thành lập vào năm 1961 với mục đích chia xẻ thông tin thu thập được bởi các cơ quan tình báo quân sự chính như Cục Tình báo Thủy quân lục chiến. Mới đây, DIA đã mở rộng mạng lưới giản điệp hải ngoại của mình để thu thập tình báo tại thực địa.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: DIA là cơ quan tình báo đầu ngành của Bộ Quốc phòng Mỹ, điều phối công tác phân tích và thu thập tình báo về quân đội nước ngoài, ngoài các hoạt động giám sát và trinh sát. DIA là đầu mối liên hệ chung giữa các cơ quan tình báo quân sự và quốc gia.
Ngân sách: 4,4 tỷ USD.
Quân số: 16.500 người.

Cục Tình báo và nghiên cứu (Bureau of Intelligence and Research - INR) cung cấp cho các nhà ngoại giao các công cụ cần thiết để tiến hành chính sách đối ngoại hiệu quả.

INR có liên quan tới Cục Hoạt vụ chiến lược OSS thời Thế chiến II, nhưng đã được chuyển sang Bộ Ngoại giao từ sau chiến tranh. INR hiện nay báo cáo trực tiếp cho ngoại trưởng, khác thác tình báo từ tất cả cá nguồn và đưa ra sự phân tích độc lập về các sự kiện trên thế giới và cái nhìn sâu sắc trong thời gian thực.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: INR là cơ quan tham mưu chủ yếu của ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề tình báo và hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách khác, các vị đại sứ và đội ngũ nhân viên sứ quán.
Ngân sách: 49 triệu USD (2007) theo các tài liệu mà Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ FAS có được.

Cục Tình báo Không quân (Air Force Intelligence) cung cấp thông tin trinh sát cho lực lượng mặt đất của quân đội Mỹ.

Trước đây có tên Air Intelligence Agency, cơ quan tình báo này nay được gọi là Air Force ISR (Intelligence, Surveillance, Reconnaissance - Tình báo, giám sát và trinh sát). Cục Tình báo Không quân Mỹ được thành lập vào năm 1948 để cung cấp tin tức cho binh sĩ trên mặt đất và mới đây, ISR đã thu thập tình báo từ các máy bay không người lái.

Trụ sở: Căn cứ không quân Lackland, Texas
Nhiệm vụ: ISR thu thập và phân tích tình báo về nước ngoài và các lực lượng thù địch nước ngoài, cả trong và ngoài khu vực tác chiến. Họ còn tiến hành giám sát điện tử và giám sát ảnh, và cung cấp thông tin thời tiết, bản đồ cho lực lượng trên chiến trường.
Ngân sách: Không rõ. Ngân sách của ISR rõ ràng là nằm trong ngân sách tác chiến và bảo đảm của Không quân Mỹ, vốn bao gồm các lĩnh vực khác như hoạt động bay và hậu cần. Tuy nhiên, con số đó năm 2012 chỉ là hơn 46 triệu USD.

Cục Tình báo Không gian địa lý quốc gia cung cấp thông tin bản đồ tốt nhất cho các lực lượng quân sự.

Có nguồn gốc từ Cục Bản đồ quốc phòng (Defense Mapping Agency) thành lập năm 1972 và từng được gọi là NIMA, cục này được đổi tên thành Cục Tình báo Không gian địa lý quốc gia (National Geospatial-Intelligence Agency - NGA) vào năm 2003. Cơ quan này có nhiệm vụ thu thập và tìm hiểu các thuộc tính vật lý và nhân tạo của trái đất. Sử dụng các hình ảnh siêu chất lượng, chủ yếu chụp từ các vệ tinh, NGA là cơ quan đã theo dõi khu nhà của trùm khủng bố Osama bin Laden ở Pakistan.

Trụ sở: Fort Belvoir, Virginia.
Nhiệm vụ: NGA sử dụng các chuyên gia bản đồ và các nhà phân tích để thu thập và tạo lập thông tin về trái đất. Những dữ liệu này được sử dụng cho công tác dẫn đường, an ninh quốc gia, các chiến dịch quân sự và các nỗ lực cứu trợ nhân đạo.
Ngân sách: 4,9 tỷ USD.
Quân số: Khoảng 14.500 công chức.
Phân cục An ninh quốc gia thuộc FBI phụ trách hoạt động chống khủng bố và thu thập tình báo.

Phân cục An ninh quốc gia NSB (National Security Branch) thuộc Cục Điều tra liên bang FBI, được thành lập vào năm 2005, kết hợp các nguồn lực bao gồm chống khủng bố, phản gián, chống phổ biến vũ khí hủy diệt lớn và tình báo dưới quyền chỉ huy của duy nhất Giám đốc FBI.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: Được thành lập sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 và những kết luận của Ủy ban về vũ khí hủy diệt lớn của Iraq WMD, khi mà các cơ quan tình báo không chia xẻ  thông tin với nhau, NSB kết hợp các tin tức tình báo về các mối đe dọa an ninh quốc gia và tội phạm từ các nguồn khác nhau mà thường là đan xet để bảo về các lợi ích của nước Mỹ.
Ngân sách: Tổng ngân sách của FBI là khoảng 8,1 tỷ USD (2012), bao gồm cả khoản tăng 119 triệu USD “để tăng cường các chương trình chống khủng bố, xâm nhập máy tính và các chương trình khác” của FBI.
Quân số: Khó xác định con số chính xác. FBI có tổng quân số 35,902 nhân viên.

Bộ chỉ huy Tình báo và An ninh Lục quân (Army Intelligence and Security Command - INSCOM) cung cấp thông tin tình báo thiết yếu cho binh sĩ trên chiến trường.

Tình báo Lục quân Mỹ từng có các điệp viên hoạt động cho Lục quân lục địa (Continental Army) vào năm 1775, nhưng INSCOM phải đến năm 1977 mới được thành lập để trở thành bộ chỉ huy hỗn hợp chủ yếu của tình báo Lục quân Mỹ.

Trụ sở: Fort Belvoir, Virginia.
Nhiệm vụ: INSCOM cung cấp cho các cấp chỉ huy trên chiến trường thông tin mà họ có thể cần trên chiến trường: đó là thông tin chặn thu liên lạc vô tuyến điện của kẻ thù, các bản đồ, hình ảnh mặt đất và thông tin về cơ cấu lực lượng và quân số đối phương.
Ngân sách: Không rõ. Tổng ngân sách tình báo quân sự là 21.5 tỷ USD vào năm 2012.

Cục Tình báo và phản gián (Office of Intelligence and Counterintelligence) thuộc Bộ Năng lượng Mỹ, thu thập thông tin về vũ khí hạt nhân nước ngoài.

Đáng ngạc nhiên là Bộ Năng lượng cũng có một cơ quan tình báo. Cục Tình báo và phản gián (Office of Intelligence and Counterintelligence) tập trung vào thông tin tình báo kỹ thuật về vũ khí hạt nhân và hoạt động không phổ biến vũ khí hạt nhân, năng lượng hạt nhân, đặc biệt là của nước ngoài, và an ninh năng lượng.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: Bộ Năng lượng không có khả năng tiến hành hoạt động tình báo đối ngoại mà phải dựa vào thông tin do các cơ quan tình báo khác như CIA, NSA cung cấp. Nếu tin tức liên quan đến vũ khí hủy diệt lớn, Bộ Năng lượng Mỹ yêu cầu các chuyên gia phân tích.
Ngân sách: Không rõ. Giống như ngân sách các bộ ngành chính phủ khác, hoạt động tình báo không được nêu cụ thể, mặc dù nó có thể nằm trong hạng mục chi “Hoạt động năng lượng nguyên tử quốc phòng (Atomic Energy Defense Activities) vốn có tổng ngân sách hơn 16 tỷ USD vào năm 2012.

Cục Trinh sát quốc gia (National Reconnaissance Office) phụ trách các vệ tinh do thám của nước Mỹ.
Trong khi NGA chịu trách nhiệm thu thập thông tin từ các dữ liệu vệ tinh, Cục Trinh sát quốc gia NRO (National Reconnaissance Office) được thành lập bí mật vào năm 1961 và không được thừa nhận công khai cho đến năm 1992, phụ trách thiết kế, chế tạo, phóng và bảo trì vệ tinh.

Trụ sở: Chantilly, Virginia.
Nhiệm vụ: NRO mô tả nhiệm vụ của mình là “các hệ thống tình báo sáng tạo trên không gian cho an ninh quốc gia”. Nói một cách đơn giản, NRO cung cấp cho “các khách hàng” của mình tại CIA, Bộ Quốc phòng… các vệ tinh do thám có công nghệ tiên tiến.
Ngân sách: 10,3 tỷ USD.

Cục Tình báo Lực lượng Bảo vệ bờ biển cung cấp thông tin về an ninh hàng hải và phòng thủ nội địa.

Lực lượng Bảo vệ bờ biển Alaska diễn tập vào năm 2009
Cục Tình báo Lực lượng Bảo vệ bờ biển CGI (Coast Guard Intelligence) được thành lập vào năm 1915 và nay trực thuộc Bộ An ninh nội địa Mỹ, chuyên cung cấp thông tin về an ninh hàng hải và hải cảng, tìm kiếm-cứu nạn và chống ma túy.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: Mặc dù CGI về mặt kỹ thuật là một cơ quan tình báo, sứ mệnh chính của nó là một cơ quan điều tra của Lực lượng Bảo vệ bờ biển Mỹ (Coast Guard). Các đặc vụ của CGI “tiến hành các cuộc điều tra tội phạm, phản gián và an ninh cá nhân trong khu vực trách nhiệm của Lực lượng Bảo vệ bờ biển”, chủ yếu là những vụ vi phạm luật quân sự. Tuy nhiên, Lực lượng Bảo vệ bờ biển còn có các chuyên gia phân tích và thu thập tin tức tình báo.
Ngân sách: Không rõ. Giống như Lục quân Mỹ, ngân sách của CGI có sự chồng lấn nhất định, mặc dù dự toán ngân sách năm 2014 bao gồm 60 triệu USD cho các hệ thống C4ISR (Command, Control, Communications, Computers, Intelligence, Surveillance and Reconnaissance - chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát).
Quân số: CGI tương đối nhỏ, chỉ sử dụng khoảng 280 người.

Cục Tình báo và phân tích thuộc Bộ Tài chính Mỹ, thu thập tin tình báo về khủng bố và tài chính.

Cục Tình báo và phân tích (Office of Intelligence and Analysis - OIA) thuộc Bộ Tài chính Mỹ, là cơ quan tình báo còn khá trẻ, được thành lập năm 2004 theo đạo luật Tình báo (Intelligence Authorization Act). OIA chủ yếu tập trung cung cấp thông tin để đấu tranh chống khủng bố và các giao dịch tài chính bất hợp pháp.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: OIA bảo vệ hệ thống tài chính Mỹ “chống lại việc sử dụng bất hợp pháp và đấu tranh chống các quốc gia cứng đầu, những kẻ hỗ trợ khủng bố, những kẻ phổ biến vũ khí hủy diệt lớn, những kẻ rửa tiền, bọn trùm ma túy và các mối đe dọa an ninh quốc gia khác”.
Ngân sách: Khoảng 340 triệu USD.

Cơ quan Phòng chống ma túy săn lùng bọn buôn lậu ma túy.

Cơ quan Phòng chống ma túy DEA (Drug Enforcement Administration) thu thập tin tình báo cho các hoạt động phòng chống ma túy kể từ khi được thành lập vào năm 1973. DEA thu thập và cung cấp tin tình báo cho các cơ quan chấp pháp khác và hỗ trợ các cuộc điều tra.

Trụ sở: El Paso, Texas.
Nhiệm vụ: DEA trợ giúp lực lượng chấp pháp địa phương và liên bang trong việc tiến hành các cuộc điều tra ma túy lớn, cùng với việc thu thập “thông tin dẫn đến các vụ tịch thu, bắt giữ, và cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách thông tin về xu hướng hoạt động ma túy để các quyết định có tính chương trình có thể dựa vào”.
Ngân sách: 2 tỷ USD (tổng ngân sách của DEA vào năm 2013).

Cục Tình báo Thủy quân lục chiến theo dõi các chiến trường của Thủy quân lục chiến Mỹ (USMC).

Giống như Tình báo Lục quân Mỹ, Cục Tình báo Thủy quân lục chiến IA (Marine Corps Intelligence Activity) làm nhiệm vụ thu thập và phân tích thông tin cho binh sĩ Mỹ trên chiến trường, bao gồm việc lập bản đồ, chặn thu vô tuyến điện, điệp báo và phản gián.

Trụ sở: Quantico, Virginia.
Nhiệm vụ: Chức năng chủ yếu của IA là cung cấp thông tin tình báo chiến thuật và chiến dịch cho các chỉ huy trên chiến trường. Nó cũng là đơn vị tham mưu, phân tích tình báo cho Tư lệnh USMC.
Ngân sách: Không rõ. Tổng ngân sách tình báo quân sự là 21,5 tỷ USD vào năm 2012.

Cục Tình báo Hải quân cung cấp thông tin về tình hình trên các đại dương cho các lực lượng của Hải quân Mỹ trên toàn cầu.

Cục Tình báo Hải quân Mỹ ONI (Office of Naval Intelligence) được thành lập vào năm  1882 “nhằm thu thập và ghi lại những thông tin hải quân” có thể có lợi trong chiến tranh và hòa bình. Giống với các cơ quan tình báo quân sự khác, ONI cung cấp thông tin về tình hình quân đội nước ngoài cho các chỉ huy hải quân.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: ONI thu thập tình báo và cung cấp nhanh chóng cho các cấp ra quyết định. “Chúng tôi cung cấp tin tình báo về phổ biến vũ khí và công nghệ, và các hoạt động buôn lậu và bất hợp pháp trên biển mà Hải quân Mỹ trực tiếp hỗ trợ, các lực lượng tác chiến liên quân và các nhà và các cơ quan ra quyết định quốc gia”.
Ngân sách: Không rõ. Tổng ngân sách tình báo quân sự là 21,5 tỷ USD vào năm 2012.
Cục Tình báo và phân tích Bộ An ninh nội địa Mỹ tìm kiếm thông tin về bất kỳ mối đe dọa nào đối với nước Mỹ.

Bộ An ninh nội địa Mỹ The Department of Homeland Security Office of Intelligence and Analysis looks for information on any potential threats to the US.

Cục Tình báo và phân tích Bộ An ninh nội địa Mỹ (Office of Intelligence and Analysis) hoạt động chủ yếu nhằm đối phó các mối đe dọa nội địa Mỹ, thu thập và phân tích thông tin, và chia xẻ tin tình báo với các lực lượng chấp pháp địa phương và liên bang thông qua việc sử dụng “các trung tâm hợp nhất” (thông tin).

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: Cục Tình báo và phân tích Bộ An ninh nội địa Mỹ có 4 lĩnh vực hoạt động chính: điều tra các mối đe dọa thông qua phân tích, thu thập thông tin liên quan đến an ninh nội địa, chia xẻ thông tin đó với các cơ quan cần chúng và quản lý hoạt động an ninh nội địa.
Ngân sách: 284,3 triệu USD.

Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ là nơi toàn bộ thông tin tình báo được tổng hợp để cung cấp cho Tổng thống Mỹ.

Được thành lập vào năm 2004, Văn phòng Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ ODNI (Office of the Director of National Intelligence) điều phối hoạt động của cả cộng đồng tình báo Mỹ. Giám đốc Tình báo Quốc gia (DNI) James R. Clapper là cố vấn chính của Tổng thống Mỹ, Hội đồng An ninh quốc gia và Hội đồng An ninh nội địa.

Trụ sở: Thủ đô Washington.
Nhiệm vụ: DNI có 2 nhiệm vụ chính: tổng hợp tin tức tình báo và “xây dựng một cộng đồng tình báo có thể cung cấp những tin tức tình báo sâu sắc nhất có thể”.
Ngân sách: 1.7 tỷ USD.

“Nhà nước tình báo” của Mỹ bành trướng mạnh mẽ từ sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001.


IC là một cộng đồng rộng lớn, sử dụng hơn 107.000 nhân viên và có tổng ngân sách 52,6 tỷ USD. Ngoài ra, còn có:
- 1.271 tổ chức chính phủ và 1.931 công ty tư nhân làm việc phục vụ tình báo, chống khủng bố hoặc an ninh nội địa ở Mỹ, một điều tra của Washington Post cho biết.
- Một số chiến dịch phản gián “được tập trung về mặt chiến lược chống các mục tiêu ưu tiên của Trung Quốc, Nga, Iran, Cuba và Israel”, theo ngân sách tuyệt mật chi cho hoạt động tình báo.
- IC đang gặp khó khăn trong việc xâm nhập các chính phủ Iran, Trung Quốc, Nga và Bắc Triều Tiên. Washington Post cho rằng, có “5 lỗ hổng “nguy cấp” trong thông tin tình báo Mỹ về các chương trình hạt nhân và tên lửa Bình Nhưỡng, và các nhà phân tích hầu như mù tịt về các ý đồ của nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un.
- Chỉ riêng NSA cũng đang thuê hơn 250 công ty thực hiện công việc tình báo, kể cả các đại gia như Northrop Grumman và SAIC.
- Nhiều cơ quan tình báo Mỹ đang làm công việc không cần thiết, ví dụ có tổ chức liên bang và quân sự đang theo dõi dòng tiền đến và đi khỏi các mạng lưới khủng bố.
Nguồn: intelligence.gov, 31.8.2013

Barbarosa - Chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử chiến tranh...

Nhân kỷ niệm kết thúc chiến tranh TGLT 2 1945 - 2015, xin được nhắc lại một chiến dịch lớn nhất lịch sử chiến tranh, giữa quân đội Đức Quốc Xã và quận đội Liên Xô trong CTTG 2 với thất bại chưa từng có của Hồng Quân Liên Xô nên sử lề phải của Việt Nam ít nhắc tới bởi sự che dấu và bưng bít...

Từ ngày 22/6/1941 đến cuối tháng 9/19411. Một cuộc thất trận lớn nhất và toàn diện nhất của quân đội Liên Xô trước quân đội Đức Quốc Xã vào thời điểm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức. Đây có thể nói là một cuộc thua trận có một không hai, lớn nhất trong lịch sử nhân loại trong mọi thời kỳ. Với chiến trường rộng lớn, quân đội hai bên tham gia đông nhất, thảm bại lớn nhất của quân đội LX, quân lực LX bị tiêu diệt nhiều nhất ( 600.000 ngườ), bị bắt nhiều tù binh nhiều nhất (gần 1 triệu tù binh), một vùng đất rộng mênh mông hầu như toàn bộ nước Ucraina ngày nay, cùng với Thủ Phủ Kiép (thủ đô Kiep bây giờ) rơi vào tay người Đức. Và đây cũng là thắng lợi vĩ đại nhất của quân đội Đức Quốc Xã...


Như các bạn đều biết trong thế chiến 2, Đức bất ngờ mở chiến dịch Barbarosa, tấn công vào Liên Xô ngày 22/6/1941. Đây cũng là một chiến dịch quân sự lớn nhất trong lịch sử hơn 5,5 triệu binh lính tấn công làm 3 mũi (Bắc, Trung Tâm và Nam) trên một diện tích rộng hàng ngày cây số. Và mũi thứ 3, Mũi Nam sẽ tấn công vào Ucraina, lúc này đang nằm trong LX. Mục tiêu chiếm thủ phủ Kiep...

Người Đức sử dụng chiến thuật blitzkrieg (chiến thuật tấn công chớp nhoáng) với lực lượng xe tăng làm nòng cốt để thọc sâu, hoặc hai mũi gọng kìm để hợp vây bức hàng đối phương. Chiến thuật này đã mang lại chiến thắng nhanh chóng ở các trận chiến với Ba Lan và Pháp và gây nên nỗi kinh hoàng cho cả thế giới lúc đó. Chỉ trừ Xtalin và những người cộng sản Liên Xô.

Để phòng thủ, Liên Xô đã phạm sai lầm đầu tiên khi đưa gần như tất cả các lực lượng manh nhất của họ lên tuyến đầu giáp với kẻ thù. Nhưng với chiến thuật xe tăng vận động chiến thì đó sẽ là miếng mồi ngon cho các sư đoàn xe tăng Đức hợp vây. Ngoài ra sự căm thù Xô Viết ở những vùng bắt đầu trận đánh là một phần xứ Ba Lan mà LX mới sát nhập, và toàn bộ xứ Ucraina. Cùng với việc đây hoàn toàn là vùng đồng bằng thảo nguyên với hê thống đường xá giao thông rất tốt thuận tiện cho các đơn vị xe tăng Đức hoạt động.

Sai lầm tiếp theo là bắt đầu cuộc chiến 1941, thay vì đối đầu với sức quá mạnh của đối phương, Liên Xô nên học bài học của chính nước Nga năm 1812. Năm đó, quân Pháp của Napoleon tấn công nước Nga Sa Hoàng, quân đội Nga theo lệnh tướng chột mắt Cutudop cứ dần dần rút lui tránh giao chiến với đại quân hùng mạnh của Pháp. Chỉ đến khi Sa hoàng bắt buộc thì Cutuzop phải buộc giao chiến và đã thảm bại ở Brodino. Sau đó quân Nga lại tiếp tục rút lui, bỏ cả thành phố Matscova lại cho quân Pháp. Với một sự tiếp viện dài lê thê hàng ngàn km từ Pháp, lại bị du kích quấy rối nên dần dần quân Pháp đại bại. Hoàng đế Napoleon phải bỏ đoàn quân chạy về Pháp, và nước Pháp thất trận từ đây. Napoleon bị đi đầy lần thứ nhất.

Nhưng năm 1941 này với danh hiệu đạo quân ưu tú, Hồng quân LX đã chấp nhận đối đầu với lực lượng Đức QX. Kết quả là LX đã bị một loạt trận đánh tao ngộ chiến, bao vây, bức hàng cùng một loạt thất bại thảm hại, với mỗi trận bị tiêu diệt, bị bắt sống hàng vạn tù binh (Tarnopon, Urman...) Cả ba mũi tấn công chính đều thu được thành công vang dội. Mũi phía Bắc quân Đức đã đến Lênilgrat. Mũi Trung Tâm đã đến cửa ngõ Matscva. Ở mũi Nam, các sư đoàn Đức ào ào xông vào vùng Ucraina rộng lớn như đi vào chỗ không người.

Đến đây thì cũng chưa phải thảm họa cuối cùng. Với một thế trận khi mũi quân Trung tâm của Đức đang tiến đánh Moskva nhanh như chẻ tre, tức là sườn phải của bị đe dọa như thế, với thế trận bị cụm quân Nam đánh như thế thì chỉ có rút lui thật nhanh mới tránh thảm họa. Nhưng mặc cho sự van nài của thượng tướng M. P. Kirponos, tư lệnh phương diện quân yêu cầu xin rút lui, Tổng tư lệnh Xtalin, cùng với đại tướng khét tiếng nướng quân Giucốp (giống bác Giáp nhà ta) lại chủ quan, cương quyết chống cự đến cùng.

Đến đây thì một sự kiện hoàn toàn mới xảy ra. Mà giới viết sử chiến tranh thế giới gọi là :"Cú Ngoặt Xuống Phía Nam" nổi tiếng của A.Hitler. Quốc Trưởng Đức cũng đã bỏ ngoài tai mọi lời can ngăn của các tướng tá, mà quyết định lấy bớt lực lượng mạnh nhất của mũi Trung Tâm là tập đoàn quân xe tăng 2 hùng mạnh của tướng tăng khét tiếng Guderian, cùng các lực lượng phụ thuộc mở một mũi đánh xuống phía Nam. Thế là hàng ngàn xe tăng, thiết giáp của TĐ2 đã phơi phới bon bon trên những con đường bằng phẳng rộng mênh mông của xứ U, chạy hết tốc lực trên đoạn đường 800 cây số để luồn đằng sau thủ phủ Kiép, để hoàn thành cuộc hợp vây vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh. Chính nhờ có cú Ngoặt Xuống Phía Nam này, cùng với sự ương bướng không chịu rút lui của Stalin mới có một cuộc hợp vây có một không hai mà quân lực Đức QX mới thực hiện được với quân Liên Xô.

Mặc dù sau này các nhà nghiên cứu nói rằng đây là điều dở của Hitler khi rút mất lực lượng chính để rồi tấn công thủ đô Matcơva phải chịu thất bại sau đó. Nhưng đa số cho rằng Hitler đã đúng vì có một nhãn quan chiến lược, và như thế thì mới có một trận thắng vô tiền khoáng hậu. Gần một nửa lực lược Xô Viết với toàn là lực lượng ưu tú nhất đã ở trong rọ (3 triệu quân). Kết quả là quân Đức đã loại khỏi vòng chiến 7 TĐQ, tiêu diệt gần 50 sư đoàn và bắt sống gần 1 triệu tù binh. Quân LX lúc đó chỉ có chạy và chạy...quân Đức chỉ có đuổi và đuổi, đưa quân Nga vào vòng vậy ở Crimê (xứ mà người Nga vừa sát nhập) .

Có một chuyện vui lúc đó là một đơn vị thám sát của Đức đến một vị trí tiền tiêu thì gặp Hồng quân LX. Vì chỉ là một nhóm thám báo vài người nên lính Đức định chuồn nhưng không kịp rồi. Quân Nga đông nghẹt đổ ra bắt giữ những chú lính Đức này và để...xin hàng. Thế là vài chú lính này đã dẫn hàng trăm lính và sĩ quan Nga về trại giam. Một chuyện vui thứ hai nữa là trên một mũi tấn công thọc sâu, một hạ sĩ quan Đức đã gặp một toán quân Nga xin đầu hàng. Đang cùng đoàn quân tiến công không có thời gian bắt tù binh, anh ta viết đại một tờ giấy tiếng Nga tào lao rằng đã xác nhận toán quân X này đầu hàng. Rồi ký tên và hành quân tiếp sau khi dặn toán lính Nga đợi ở đó. Hôm sau rảnh rỗi, anh ta được cấp trên cử đi xem tù binh thế nào. Thật tình thì chú hạ sĩ này chẳng hy vọng các tù binh còn ở đó đâu, nhưng anh ta thật bất ngờ khi thấy cả đơn vị tù binh hôm qua vẫn chờ ở đó để đợi làm....tù binh. Có thêm rất nhiều sĩ quan cùng lính của các đơn vị quân LX khác cũng nhập bọn chờ làm tù binh ở đó, chung quanh tờ giấy biên nhận đầu hàng tào lao của anh hạ sĩ Đức như đã nói ở trên.

Cuối tháng 9/1941 toàn bộ Phương diện quân bị bao vây và tan rã hoàn toàn. Ucraina rơi vào tay người Đức. Tư lệnh PDQ Ucraina thượng tướng M. P. Kirponos bị giết khi cố vượt vòng vây. Chính ủy Vtughin tự sát...Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina M.  Burmistenko bị quân Đức bắt và xử bắn...

Trận thua trận kinh hoàng này đã khiến cho giới lãnh đạo LX khủng hoảng. Nên ngay sau đó khi quân Đức tấn công Moskva (bất thành), thì Đại Nguyên Soái Xtalin đã chuồn khỏi thủ đô cùng với thi hài của Lênin...

Nhưng rồi lại có chuyện Tái Ông mất ngựa. Chính vì sự thua trận kinh hồn đó đã rúng động phần còn lại của thế giới, nhất là ở Mỹ. Và thế là phong trào giúp LX thắng thế trong chính giới Mỹ. Ngay sau đó hàng ngàn xe tăng, pháo, hàng chục ngàn ô tô, thiết bị quân sự...được ào ào ạt chở đến Liên Bang Xô Viết để tiếp tục cuộc chiến. Để rồi trải qua 4 năm trời chiến đấu, bao hy sinh mất mát thì rồi người Nga cũng đã báo thù cho trận thua đầu tiên ấy bằng trận chiến thắng cuối cùng để có ngày Chiến Thắng 9/5/1945 đánh bại hoàn toàn nước Đức Quốc Xã...

MTA

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Ki Tô Giáo...

Kitô giáo hoặc Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán-Việt) là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, Abraham là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả Rập (hai tôn giáo còn lại là Do Thái giáo và Hồi giáo), đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Kitô hữu tin rằng Giêsu là con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh Cựu Ước. Là độc thần giáo, hầu hết Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong 3 thân vị gọi là Ba Ngôi. Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa cũng như hàng ngàn xác tín và giáo phái khác nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính: Công giáo Roma, Chính Thống giáo Đông phương và Kháng Cách Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2,1 tỉ tín hữu (chiếm khoảng 34% dân số thế giới).
Từ "Kitô" xuất phát từ chữ Khristos trong tiếng Hi Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu",. Từ "Kitô hữu" có nghĩa là "người có Chúa Kitô hiện hữu (ở trong)", hay "người thuộc về Chúa Kitô".
Trong tiếng Việt, bên cạnh "Kitô" (như Kitô giáo) có gốc từ tiếng Hy Lạp như trên, và thường được sử dụng bởi tín đồ Công giáo, còn có "Cơ Đốc" (như Cơ Đốc giáo) có nguồn gốc từ chữ Nho  và thường được những người theo đạo Tin Lành sử dụng. Trong khi người Công giáo dùng chữ "Kitô" để chỉ Giêsu, người Tin Lành thường dùng chữ "Christ". Ngoài ra, Thiên Chúa giáo cũng thường được sử dụng bởi những người ngoài Kitô giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.

Lịch sử

Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva là tổ phụ của loài người, không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh cứu rỗi cho loài người để loài người được về lại thiên đàng cùng Thiên Chúa.
Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Kitô giáo là Chúa Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng Messiah, và là Chúa Kitô. Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew מָשִׁיחַ (māšiáħ), nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός (Khristos).
Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.
Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Chúa Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Chúa Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, đặt Chúa Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.
Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Chúa Giêsu được gọi là Kitô hữu tại thành Antioch (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolô và các sứ đồ khác.
Theo Tân Ước, Chúa Giêsu tự xưng mình là Đấng Messiah mà dân Do Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó. Ngài cũng bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi chính quyền La Mã vào năm 30. Tuy nhiên Giêsu được Pontius Pilate, tổng đốc người La Mã, gọi là "Vua của dân Do Thái".
Theo các sách Phúc âm, người La Mã buộc tội Giêsu vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái, nhưng một số học giả cho rằng đó là cách mà Đế chế La Mã trừng phạt những người chống đối họ. Kitô hữu tin rằng Cựu Ước đã tiên báo cái chết và sự sỉ nhục mà Giêsu phải chịu như đã chép trong Tân Ước. Sách Isaia ngụ ý rằng Giêsu bị vả, nhổ, đấm vào mặt (Isaia 50.6, 52.14-15; Matthew. 26.67-68; Mark 14.65), bị đánh bằng roi (Isaia. 53.5; John 19.1; Matthew 27.26) cũng như bị sỉ nhục.
Kitô hữu xem sự phục sinh của Giêsu là nền tảng của đức tin và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại Theo Tân Ước, Giêsu là tâm điểm của Kitô giáo, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết và chôn trong mộ, đến ngày thứ ba thì sống lạ]. Theo ký thuật của Tân Ước, sau khi sống lại, Giêsu, trong những lần khác nhau tại những địa điểm khác nhau, đã đến gặp mười một sứ đồ và các môn đồ, trong đó có lần xuất hiện trước sự chứng kiến của "hơn năm trăm người", sau đó thì về trời.
Các sứ đồ của Giêsu là nhân chứng về cuộc đời, lời giảng và sự sống lại của Giêsu. Ngoài ra còn có nhiều môn đồ (đến 70 người) trong đó có Giacôbê, Mark, Luca, Mary Magdalene..., những người này theo Giêsu trong các chuyến du hành và họ chứng kiến khi Giêsu giảng dạy và làm nhiều phép màu. Sau khi Giêsu bị đóng đinh, các sứ đồ và các môn đệ khác công bố rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và họ khởi sự rao giảng thông điệp mới. Các sứ đồ và môn đệ này đã viết các sách Phúc âm và các Thư tín.
Trong số 27 sách của Tân Ước, nhiều quyển được viết bởi Phaolô. Ông là tác giả của mười bốn thư tín và một số truyền thuyết cho rằng ông cũng là tác giả của Thư gửi tín hữu Do Thái. Phúc âm Luca và sách Sách Công vụ Tông đồ được viết bởi Luca, người chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phaolô. Phaolô là môn đồ của Gamaliel (Cv 22.3), một nhân vật có thanh thế trong toà công luận (Cv 5.34-40). Phaolô được xem như là nhà truyền giáo quan trọng nhất rao giảng thông điệp Kitô cho thế giới bên ngoài.

Hội thánh sơ khai

Kitô giáo lan truyền nhanh trong suốt ba thế kỷ an bình của Đế quốc La Mã:
  • thông qua Ai Cập đến Bắc Phi, Sudan
  • thông qua vùng Lưỡng Hà  đến Ba Tư, Nội Á và Ấn Độ
  • thông qua Hy Lạp và La Mã đến Âu Châu
Vào thời kỳ này bên trong Hội thánh chia ra hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Trong khi cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo  như phép cắt bì và một số kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới bên ngoài.
Một trong những nhà trức tác quan trọng đầu tiên của Kitô giáo, Tertullian, đã viết cho một quan tổng đốc Đế chế La Mã về sự phát triển của Kitô giáo tại Carthage rằng mới hôm qua họ chỉ là một nhóm nhỏ, "nay có mặt khắp mọi nơi – các đô thị, hải đảo, trong thành lũy, thị trấn, chợ, ngay cả trong trại lính, tại các bộ tộc, lâu đài, nghị viện; chúng tôi chẳng để lại gì cho quí vị ngoại trừ các nơi thờ phụng các thần linh của quí vị mà thôi." (Bài biện giáo viết tại Carthage, năm 197).
Trong vòng vài thế kỷ đầu tiên, các nhà thần học và triết học khoa bảng như Origen và Augustine đã phát triển nền thần học và triết học Kitô giáo.
Suốt thời kỳ này, trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua các cơn bách hại. Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự bách hại, dẫn đến sự tử đạo của Stephen (Ê-tiên) và James (Giacôbê hoặc Gia-cơ), con trai của Zebedee (Xê-bê-đê)[. Những đợt bách hại ở qui mô lớn hơn, dù không thường xuyên nhưng dữ dội, xảy ra dưới thời trị vì của các hoàng đế La Mã như Nero, Valerian, Diocletian và Galerius. Cuộc đời của những người tử đạo, thà chết chứ không chối bỏ đức tin, trở nên biểu trưng cho đức hạnh cao quí nhất. Danh sách kinh điển Tân Ước được đồng thuận, các bản dịch Kinh Thánh đầu tiên bắt đầu xuất hiện, cùng lúc với hệ thống giáo quyền: Các giám mục thành Alexandria, Antioch và La Mã đều xưng nhận danh hiệu Giáo phụ.
 Hoàng đế La Mã Galerius, trước khi chết, ban chiếu chỉ Galerius ngưng mọi hoạt động bách hại. Hoàng đế Constantine I qui đạo năm 312 và, với chiếu chỉ Milano (313), biến Kitô giáo thành quốc giáo. Dù vậy, các cuộc bách hại được tái lập dưới triều Julian Kẻ bội giáo (361-363), người muốn phục hồi cựu giáo trên lãnh thổ đế quốc; Kitô giáo sau này được công nhận quốc giáo lần nữa dưới triều hoàng đế Theodotius vào năm 382. Những biến cố tương tự cũng xảy ra tại các xứ láng giềng Gruzia và Armenia. Nhưng vì đế quốc Ba Tư luôn tranh chấp với đế quốc La Mã, Kitô hữu phải chịu nhiều áp bức từ Sassanids, người muốn phục hồi đạo Zoroaster.
Tại Đế quốc Ba Tư, vào năm 410 giám mục Seleucia nhận được hỗ trợ, chiếm quyền và thay thế Thượng phụ thành Antioch giữ thẩm quyền cao nhất của Giáo hội Assyria đông phương. Trong thời kỳ ly giáo Nestorian, giáo hội này cắt đứt quan hệ với phương Tây. Trong suốt một thiên niên kỷ đã trở thành giáo hội có nhiều ảnh hưởng tại Châu Á với các giáo phận được thành lập tại những nơi xa xăm như Ấn Độ, đảo Java và Trung Hoa.

Các giáo hội quốc gia


Martin Luther năm 1529, tranh của Lucas Cranach
Sự khẳng định thần tính của Giêsu luôn là vấn đề trọng tâm đối với Kitô hữu thời sơ khai. Nhiều nhà trước tác, bao gồm Justin Martyr và Tertullian chứng thực niềm tin Giêsu là Thiên Chúa, trong khi một số các nhóm Kitô giáo khác từ chối chia sẻ niềm xác tín này. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi Arius thuyết phục được khá đông các giám mục và tín hữu tin rằng Giêsu chỉ là một tạo vật, dù là tạo vật đầu tiên và cao trọng nhất. Cuộc tranh luận được giải quyết tại Công đồng Nicaea, được triệu tập bởi hoàng đế Constantine I, nơi học thuyết của Athanasius, một học giả theo thuyết Ba Ngôi, được công nhận là giáo lý chính thức của Hội thánh (xem tín điều Nicaea, tín điều Athanasius). Dù Constantine I ra lệnh đốt sách của Arius và trục xuất ông, học thuyết của ông vẫn tiếp tục phát triển trong đế quốc suốt vài thập niên và trong vòng các bộ tộc người Đức trong gần hai thế kỷ sau đó.
Các công đồng vẫn tiếp tục được triệu tập để giải quyết các vấn đề thần học. Trong khi các công đồng bàn luận nhằm hợp nhất Kitô giáo thì các hoàng đế ủng hộ các công đồng nhằm bảo vệ sự ổn định chính trị. Một số thuật ngữ thần học được sử dụng tại các công đồng đã bị hiểu nhầm bởi các giáo hội chính thống mà ngôn ngữ chính là tiếng Syria, tiếng Armenia hay tiếng Copt, nảy sinh nhiều dị biệt và dẫn đến các cuộc ly giáo giúp hình thành các giáo hội quốc gia được gọi chung là các giáo hội phương Đông.
Vào thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo phát triển đến hầu hết thế giới phương Tây, Trung Đông, các vùng Châu Phi và bắt đầu tiếp cận vùng Viễn Đông. Dù vẫn nảy sinh một số bất đồng về thần học và đều được giải quyết tại các công đồng, Kitô giáo đã duy trì được sự đồng thuận về các giáo lý nền tảng trong suốt thời kỳ này. Tuy nhiên, trong thiên niên kỷ sau, các bất đồng về thần học và sống đạo ngày càng trở nên trầm trọng. Cuộc Đại ly giáo năm 1054 chia cắt Hội thánh thành giáo hội phương Tây và giáo hội phương Đông. Trong khi giáo hội phương Tây dần dần được củng cố với quyền lực tập trung vào La Mã thì giáo hội phương Đông với danh xưng "Chính thống" cam kết bảo tồn các truyền thống và đề kháng với mọi thay đổi. Cho đến nay giáo hội phương Đông vẫn duy trì lập trường không đặt giáo hội dưới quyền cai trị của một giám mục duy nhất. Giáo hội phương Đông công nhận Thượng phụ thành Constantinople là "người đứng đầu nhưng bình đẳng" với các giám mục khác đang cai quản các giáo hội tự trị trong gia đình Chính Thống giáo[19].
Tại Âu châu, chịu ảnh hưởng từ Cuộc Cải cách Kháng Cách (Protestant Reformation) vào thế kỷ 16 nhiều giáo hội đã từ chối thần phục Vatican vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào ngai Giáo hoàng cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo[20]. Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận đã được tóm tắt trong năm mệnh đề sola nổi tiếng (Xem Năm Tín lý Duy nhất):
  • Sola Scriptura: Duy Thánh Kinh - thẩm quyền của giáo hội chỉ dựa trên Kinh Thánh được giải thích cách đúng đắn và chuẩn xác chứ không được tách rời khỏi Kinh Thánh
  • Sola Fide: Duy đức tin – con người được cứu rỗi chỉ bởi tin Đấng Christ (Chúa Kitô) chứ không phải bởi công đức hay là nhờ giáo hội và các thánh lễ
  • Sola Gratia: Duy ân điển – Sự cứu rỗi được ban cho từ Thiên Chúa, bởi ân sủng của Ngài, con người không thể làm gì để được cứu
  • Solus Christus: Duy Chúa Kitô - Chúa Giêsu là đấng trung bảo duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người chứ không phải là giáo hội hay các chức sắc
  • Soli Deo Gloria: Vinh hiển chỉ dành cho Thiên Chúa - mọi vinh hiển vì sự cứu rỗi nhân loại chỉ dành cho một mình Thiên Chúa chứ không phải giáo hội hay các chức sắc.
Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người dân Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như các cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến.
Đức tin Công giáo và Kháng Cách đặt chân đến Bắc Mỹ (và sau đó là Châu Úc) bởi các di dân đến từ Châu Âu.
Không theo mô hình trung ương tập quyền như người Công giáo, cũng không tổ chức bộ máy giáo hội trên qui mô quốc gia, các tín hữu Kháng Cách tập trung trong hàng trăm, và sau này hàng ngàn giáo phái (denomination) độc lập với nhau. Đức tin Công giáo và Kháng Cách cũng đến Nam Mỹ và Châu Phi cùng lúc với người Âu châu đi chiếm thuộc địa, đặc biệt là từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào thế kỷ 18 Chính Thống giáo du nhập vào vùng Alaska thuộc Bắc Mỹ qua các di dân đến từ Nga, về sau, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, số lượng di dân người Nga còn đông hơn nhiều.
Bắt đầu từ thế kỷ 19, nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng Kitô giáo, đặc biệt tại Tây Âu, ngày càng trở nên thế tục.

Kitô giáo ngày nay

Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất, với những con số ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉngười xưng nhận niềm tin Kitô giáo; theo sau là Hồi giáo với 1,3 tỉ; số người theo Phật giáo là 1,2 tỉ người và số người vô thần là 1,1 tỉ; Ấn Độ giáo là 900 triệu; tôn giáo cổ truyền Trung Hoa là 394 triệu.
Kitô giáo chia ra nhiều nhánh, bao gồm 1,1 tỉ người Công giáo, 510 triệu người Tin Lành cùng với 84 triệu tín hữu Anh giáo, 216 triệu người Chính thống giáo, con số các tín hữu độc lập (không gia nhập giáo phái nào) là 158 triệu và những giáo hội "ngoại vi" (Chứng nhân Jehova, Cơ Đốc Phục lâm, Mormon...) có khoảng 31,7 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo vì cớ các học thuyết không chính thống của họ.
Tuy Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới và đang duy trì bộ máy truyền giáo khổng lồ, lại không đạt được mức tăng trưởng như các tôn giáo khác cũng như không theo kịp tốc độ gia tăng dân số thế giới. Trong khi dân số toàn cầu tăng 1,25% mỗi năm thì mức tăng trưởng của Kitô giáo chỉ khoảng 1,12%.
Không phải mọi người xưng nhận mình là Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) đều chấp nhận tất cả, hoặc ngay cả hầu hết, các quan điểm thần học của giáo hội của họ. Giống như người Do Thái giáo, Kitô hữu nhân phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Phong trào Khai sáng (Enlightenment) vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất đối với họ là nguyên tắc phân ly giáo hội và nhà nước, chấm dứt sinh hoạt tôn giao của một Kitô hữu được nhà nước bảo hộ đã hiện hữu lâu đời tại nhiều nước ở Âu châu. Ngày nay một người, như là một công dân tự do, có quyền bất đồng với giáo hội của mình về các vấn đề khác nhau và có quyền rời bỏ giáo hội tuỳ thích. Trong thực tế, nhiều người đã bỏ giáo hội và phát triển các hệ thống đạo giáo khác như Thần giáo (Deism), Duy nhất thần giáo (Unitarianism), nhiều người khác chọn lựa trở nên vô thần (atheist) hay bất khả tri (agnostic) hoặc là nhân bản (humanist).
Một số người ở lại Hội thánh lập ra phong trào Tự do (Liberalism) bên trong nền thần học Kháng Cách. Tân phái (Modernism) vào cuối thế kỷ 19 khuyến khích các hình thức tư duy và trình bày mới không theo truyền thống của giáo hội.
Tại Hoa Kỳ và Châu Âu, trào lưu thần học tự do góp phần phát triền tinh thần thế tục trong toàn xã hội. Nhiều Kitô hữu ngưng thực hành các bổn phận tôn giáo, mỗi năm chỉ đến nhà thờ vài lần vào những dịp lễ hội, hoặc hoàn toàn không bước chân vào nhà thờ. Nhiều người trong số họ vẫn nhắc đến lòng sùng đạo của ông bà, nhưng họ lớn lên trong những gia đình, nơi mà các giá trị Kitô giáo không còn được xem trọng. Bên trong họ là một tình cảm pha trộn đối với đức tin Kitô Giáo. Một mặt họ tiếp tục buộc mình vào các giá trị cổ truyền vì lý do bản sắc, mặt khác ảnh hưởng của tinh thần thế tục phương Tây, áp lực từ cuộc sống hằng ngày và từ những người xung quanh bứt giật họ ra khỏi ảnh hưởng còn sót lại của Kitô giáo truyền thống. Hôn nhân giữa Kitô hữu và người không phải Kitô hữu, từng là điều cấm kỵ, nay đã trở nên phổ biến. Tại một số quốc gia có truyền thống Công giáo, nhiều người trở nên tín đồ của thuyết bất khả tri
Vào đầu thế kỷ 20, trào lưu tự do phát triển mạnh tại Âu châu và Bắc Mỹ, đến thập niên 1960, kiểm soát nhiều giáo phái lớn tại Hoa Kỳ và Canada. Dù vậy, ngày nay trào lưu này đã thoái trào. Vào đầu thế kỷ 21, tuy thế giới thế tục, đặc biệt là các phương tiện truyền thông vẫn xem các nhà thần học tự do như là đại biểu và phát ngôn nhân cho Kitô giáo, các nhà thờ theo khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần. Một phần là do những nỗ lực truyền bá Phúc âm, phần khác là vì nhiều người trong số họ đang trở lại với các giá trị Kitô giáo truyền thống.
Một vấn nạn của Kitô giáo là họ đánh mất khả năng chuyển giao các giá trị Kitô giáo cho thế hệ kế tiếp. Trong khi các giáo phái lớn tại Hoa Kỳ, ngoại trừ Baptist Nam phương (Southern Baptist), đang thoái trào thì các định chế tôn giáo theo khuynh hướng Tin Lành (Evangelical) đang phát triển mạnh, đặc biệt là vào hạ bán thế kỷ 20. Tạp chí Thế kỷ Kitô giáo (Christian Century) có khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần để bị thay thế bởi đối thủ đang lớn mạnh có khuynh hướng Tin Lành, tạp chí Kitô giáo Ngày nay

Kitô giáo theo tỷ lệ dân số.
Tại phương Đông Phong trào Khai sáng không tạo lập được nhiều ảnh hưởng. Đối diện với nhiều áp lực từ các xã hội thế tục, giáo hội phải bám trụ vào các xác tín truyền thống để tồn tại, dù vậy, số lượng tín hữu cứ bị bào mòn dần.
Ngày nay, tại Đông Âu và Nga, đang diễn ra tiến trình hồi sinh. Sau nhiều thập kỷ hưng thịnh của thuyết vô thần, nhiều người bắt đầu quan tâm đến Kitô giáo cũng như các tôn giáo khác. Nhiều nhà thờ và tu viện Chính thống giáo được trùng tu và được lấp đầy bởi các tín hữu và tu sĩ. Các giáo phái Kháng Cách cũng tìm đến để truyền bá Phúc âm và thành lập giáo hội. Giáo hội Công giáo tiết lộ họ đã từng có các giáo phận bí mật và nay đang tiến hành các bước nhằm công khai hỗ trợ các nhà thờ tại đây.
Tại Nam Mỹ và Châu Phi, các giáo phái Tin Lành (Evangelical) và Ngũ Tuần (Pentecostal) đang tăng trưởng mạnh và bắt đầu gởi các nhà truyền giáo đến Châu Âu và Bắc Mỹ. Tình trạng tương tự cũng đang xảy ra tại một số nước châu Á.
Hạ bán thế kỷ 20 chứng kiến thần học tân phái phát triển thành chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism). Xảy ra cùng lúc nhưng theo hướng ngược lại là sự phát triển của hiện tượng Đại Giáo đoàn (Megachurch) - tập chú vào tính linh động của các phương pháp trình bày thông điệp Kitô cho người đương thời. Giáo trình Alpha (Alpha Course) là một điển hình cho trào lưu mới này của Kitô giáo.
Một phong trào có ảnh hưởng lớn và đang phát triển mạnh, đặc biệt ở phương Tây và Hoa Kỳ là Phong trào Tin lành (Evangelicalism). Họ có mặt và hoạt động tích cực trong hầu hết các giáo phái Kháng Cách, trong một số trường hợp họ là thành phần đa số. Những người Tin Lành thường chủ trương "xuyên giáo phái", họ thích tạo lập các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức với những người Tin Lành trong các giáo phái khác hơn là quan hệ với những người không Tin Lành trong vòng giáo phái của họ. Tín hữu Tin Lành nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có kinh nghiệm qui đạo của mỗi cá nhân và tin Chúa Giêsu là Cứu Chúa và Thiên Chúa. Họ tin vào sự tái lâm của Chúa Kitô, tính chân xác của Thánh Kinh và tin vào phép mầu.

Giáo lý

Kitô hữu xem Kitô giáo là sự kế thừa và hoàn chỉnh của Do Thái giáo. bKitô giáo mang theo mình nhiều điều từ thần học và giáo nghi của Do Thái giáo như thuyết độc thần (monotheism), niềm tin vào Đấng Messiah (hay Chúa Kitô từ chữ Hy lạp Christos  nghĩa là "Đấng được xức dầu") cùng với một vài hình thức thờ phụng như cầu nguyện, xướng đọc Kinh Thánh, chức vị tư tế (dù hầu hết người Kháng Cách tin rằng chức vị tư tế được ban cho tất cả tín hữu), và ý tưởng cho rằng sự thờ phụng trên đất là "hình bóng" cho sự thờ phụng trên thiên đàng.
Những xác tín căn cốt của Kitô giáo tập chú vào sự hoá thân thành người, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết.Ngày càng có nhiều Kitô hữu tin rằng sự tuyển chọn mà Thiên Chúa dành cho dân Do Thái được ứng nghiệm trọn vẹn qua Chúa Giêsu: Người Do Thái nào không chấp nhận Chúa Giêsu không còn là người được chọn vì họ đã khước từ Ngài như là Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Quan điểm này đang được làm giảm nhẹ hay ngay cả loại trừ tại một số giáo hội nơi người Do Thái được thừa nhận là có một địa vị đặc biệt vì cớ giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc này.
Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Ngài (Ngài chính là Thiên Chúa) đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn lao giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình.
Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi giữa ba nhánh chính của Kitô giáo - Công giáo, Chính Thống giáo và Kháng Cách - khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
  • Thiên Chúa là Ba Ngôi, Thực Thể vĩnh cửu duy nhất hiện hữu trong ba thân vị: Chúa Cha, Chúa Con (Ngôi Lời trở thành xác thịt là Chúa Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Linh.
  • Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản thể đều trọn vẹn trong Ngài.
  • Mary (Maria hoặc Ma-ri), mẹ của Chúa Giêsu, người mang thai và sinh Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã được hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Ngài nhận lãnh từ Mary trí tuệ và ý chí con người và mọi điều khác như một đứa trẻ bình thường nhận lãnh từ mẹ mình.
  • Chúa Giêsu là Đấng Messiah người Do Thái vẫn hằng mong đợi, là Đấng kế thừa ngai Vua David. Ngài ngự bên hữu Chúa Cha để trị vì với tất cả quyền bính vĩnh cửu.Ngài là niềm hi vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại. Hội thánh có thẩm quyền và bổn phận rao giảng Phúc âm trên khắp thế giới.
  • Chúa Giêsu không bao giờ phạm tội. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, tín hữu được tha thứ tội lỗi và được hoà giải với Thiên Chúa. Tín hữu chịu lễ báp têm (rửa tội) như là biểu tượng cho sự đồng chết và đồng sống lại với Chúa Kitô để nhận lãnh sự sống mới. Qua đức tin, họ nhận lãnh lời hứa sẽ sống lại từ kẻ chết để được sống đời đời. Trong danh của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh ngự vào lòng tín hữu, ban cho họ hi vọng, dẫn họ vào sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngài cũng như giúp họ tăng trưởng trong đời sống thánh khiết.
  • Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét toàn thể nhân loại, để tiếp rước những người tin Ngài vào cuộc sống vĩnh cửu kề cận Thiên Chúa.
  • Nhiều Kitô hữu ở phương Tây xem Kinh Thánh là "lời của Thiên Chúa". Những người khác, đặc biệt là ở phương Đông, tin rằng chỉ Chúa Giêsu là "Ngôi Lời của Thiên Chúa", xem Thánh Kinh là quyển sách có thẩm quyền, được soi dẫn bởi Chúa Thánh Linh nhưng được viết bởi con người. Vì dị biệt này mà nhiều người Kitô hữu bất đồng với nhau về mức độ chân xác của Kinh Thánh cũng như về phương cách giải thích.
Đức tin Kitô giáo được đúc kết trong các tín điều, quan trọng nhất là Tín điều Các Sứ đồ và Tín điều Nicaea. Các bản tín điều này được hình thành trong vòng vài thế kỷ sau công nguyên nhằm phản bác các học thuyết dị giáo. Dù vẫn còn tranh luận về vài điểm khác nhau của các bản tín điều, chúng được dùng rộng rãi để bày tỏ các xác tín căn bản của nhiều Kitô hữu.

Wikiperdia

Anh Giáo...

Anh giáo

Anh giáo là một truyền thống thuộc Cơ Đốc giáo bao gồm những giáo hội có mối quan hệ lịch sử với Giáo hội Anh, phần lớn gia nhập Cộng đồng Anh giáo.  
 
Đại Giáo đường Canterbury, Tổng Giám mục Canterbury là nhà lãnh đạo danh dự của Cộng đồng Anh giáo.
 
Đức tin Anh giáo lập nền trên Kinh Thánh, truyền thống của giáo hội các sứ đồ, quyền kế thừa các sứ đồ, và các giáo phụ đầu tiên. Anh giáo là một trong những hệ phái thuộc Cơ Đốc giáo phương Tây, tuyên bố độc lập với Giáo hoàng Rô-ma vào thời điểm xác lập Định chế Tôn giáo thời Elizabeth. Trong số những tuyên tín của Anh giáo vào giữa thế kỷ 16 có nhiều điều khoản tương tự với những xác tín của cuộc Cải cách Kháng Cách. Những cải cách của Giáo hội Anh - định hướng bởi Tổng Giám mục Cantebury, Thomas Cranmer – theo lập trường trung dung giữa hai khuynh hướng cải cách khởi xướng bởi Luther và Calvin. Đến cuối thế kỷ 16, việc giáo hội duy trì thể chế Giám mục cùng nhiều nghi thức truyền thống đã gây bất bình cho những người chủ trương xây dựng giáo hội trên nền thần học Kháng Cách.
Trong nửa đầu thế kỷ 17, qua nỗ lực của những nhà thần học Anh giáo, Giáo hội Anh và các giáo hội liên quan ở Ireland và những khu định cư Mỹ thuộc Anh thể hiện một tín ngưỡng Cơ Đốc theo lập trường trung dung trong thần học, cơ cấu tổ chức, và nghi thức thờ phụng, giữa truyền thống Kháng Cách và truyền thống Công giáo – quan điểm này đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trên bản sắc Anh giáo.
Sau Cách mạng Mỹ, các giáo đoàn Anh giáo tại Hoa Kỳ và Canada thiết lập những giáo hội tự trị với các Giám mục của chính họ, và xây dựng một thể chế tự trị. Về sau, qua sự mở rộng của Đế chế Anh và qua các hoạt động truyền giáo, thể chế này đã trở thành hình mẫu cho các giáo hội tân lập ở châu Phi, châu Đại dương, New Guinea, và khu vực Thái Bình Dương.
Cho đến nay, sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Kháng Cách và Công giáo bên trong truyền thống Anh giáo vẫn tiếp tục là một vấn đề gây tranh luận trong các giáo hội thành viên và trên qui mô Cộng đồng Anh giáo. Tuy nhiên, có một truyền thống đặc trưng của Anh giáo đã giúp kết nối các tín hữu trong cộng đồng Anh giáo trải qua nhiều thế kỷ là Sách Cầu nguyện chung, tuyển tập giáo nghi được phổ biến trong hầu hết các giáo hội thuộc Anh giáo suốt nhiều thế kỷ.
 
 Khởi nguồn
 
Trong khi tín hữu Anh giáo thừa nhận cuộc ly giáo dưới triều Henry VIII (1509-1547) là nhân tố khai sinh Giáo hội Anh như một thực thể độc lập, họ nhấn mạnh đến tính liên tục của giáo hội từ trước cuộc Cải cách Kháng Cách. Bộ máy tổ chức của giáo hội đã được thiết lập tại Hội nghị Herford năm 673, khi các Giám mục Anh lần đầu tiên cùng làm việc trong một thể chế, dưới quyền lãnh đạo của Tổng Giám mục thành Canterbury. Kể từ Định chế tôn giáo thời Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh thừa hưởng di sản từ cả Công giáo và Kháng Cách, với quân vương nước Anh được đặt vào vị trí đứng đầu giáo hội. Tuy nhiên, vua nước Anh không có vai trò nào trong các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo tại các quốc gia khác trên thế giới.
Cuộc cải cách tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua Henry VIII. Nhà vua muốn "hủy bỏ hôn nhân" với vợ là Catherine của Aragon để kết hôn chính thức với Anne Boleyn, với lý do là hoàng hậu không có hoàng tử để thừa kế ngai vàng, nhưng Giáo hoàng Clement VII từ khước. Cùng lúc, nhà vua nhận thấy sự cần thiết và những lợi ích chính trị và kinh tế khi ly khai khỏi Công giáo Rô-ma và thành lập Giáo hội Anh mà nhà vua là người đứng đầu giáo hội. Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua Henry VIII là "Lãnh đạo Tối Cao duy nhất trên đất" của Giáo hội Anh. Các đạo luật khác như luật giải thể tu viện năm 1542 mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công Giáo vào tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc. Điều này tạo nên các nguồn vật chất lớn lao hỗ trợ cho giáo hội mới vừa độc lập trên lãnh thổ nước Anh, dưới quyền cai trị của một quân vương.
Tuy nhiên, người thiết lập nền thần học đặc thù cho Anh giáo là Tổng Giám mục Canterbury Thomas Cranmer với sự tiếp bước của Richard Hooker và Lancelot Andrewes. Cranmer được hưởng nền giáo dục tại Âu châu lục địa, chịu ảnh hưởng tư tưởng cải cách, và vì vậy, mặc dù là một linh mục, ông đã kết hôn. Bởi vì Cranmer và các nhà lãnh đạo khác của Giáo hội Anh được tấn phong bởi các Giám mục theo quyền kế thừa các sứ đồ, các vị này lại truyền chức cho những linh mục khác, Anh giáo được xem là vẫn duy trì quyền kế thừa các sứ đồ.
Trong thời trị vì ngắn ngủi của vua Edward VI, con trai của Henry, Cranmer đã thành công đáng kể trong nỗ lực đem Giáo hội Anh đến gần với lập trường Thần học Calvin. "Sách Cầu nguyện chung" ra đời trong thời gian này. Tuy nhiên, cuộc Cải cách bị đảo ngược đột ngột khi Mary I lên ngôi nữ hoàng sau cái chết của em mình (Edward VI). Chỉ đến thời trị vì của Nữ Hoàng Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh mới được xác lập như là một giáo hội cải cách.
Trong thế kỷ 16, tôn giáo đóng vai trò quan trọng như là một nhân tố nối kết toàn thể xã hội. Những bất đồng tôn giáo chắc chắn sẽ dẫn đến những bất ổn xã hội, những âm mưu thông đồng và cầu viện binh lực nước ngoài để lũng đoạn triều chính hay lật đổ ngai vàng. Giải pháp của Elizabeth I nhằm giải quyết các bất đồng tôn giáo mà không cần đổ máu là xác lập một định chế giáo hội với nghi thức thờ phụng sao cho mọi người đều có thể dự phần, với một hệ thống thần học có thể bảo đảm sự đồng thuận của các khuynh hướng khác nhau về cung cách luận giải Kinh Thánh. Do đó, cần có sự bao dung cho nhiều quan điểm dị biệt và cần xem chúng là hợp pháp. Trong khi phần lớn dân chúng tỏ ra muốn đồng hành với thiết chế tôn giáo này, những nhóm cực đoan ở hai thái cực thần học không chấp nhận, và những rạn nứt bắt đầu xuất hiện bên trên bề mặt của sự hiệp nhất tôn giáo tại Anh.
Trong thế kỷ kế tiếp, có những dịch chuyển quan trọng hoặc về phía phong trào Thanh giáo hoặc về phía các trào lưu thiên về Công giáo. Cần nên biết rằng vào thời ấy, khái niệm về quyền tự do tôn giáo là không thể chấp nhận, vì vậy, cũng dễ hiểu khi mục tiêu của các nhóm đấu tranh là làm thế nào để kiểm soát giáo hội chứ không phải để được hưởng quyền tự do tôn giáo. Theo tiêu chuẩn của Âu châu lục địa, mức độ bạo động tôn giáo tại Anh tuy không cao, nhưng cũng đủ làm mất mạng một quân vương (Charles I) và một Tổng Giám mục Canterbury (William Laud). Kết quả sau cùng của cuộc chính biến phục hồi vương quyền của Charles II là nỗ lực trở lại các lý tưởng thời kỳ Elizabeth I. Tóm lại, trong giai đoạn này, đa số cư dân tại Anh chọn lựa con đường trung dung, còn đứng tại hai cực đối nghịch nhau là các nhóm Công giáo Rô-ma và Thanh giáo, mỗi nhóm đều đủ mạnh để tự bảo vệ mình khỏi bị nuốt chửng bởi nhóm kia, và đủ khôn ngoan để có thể tồn tại bên ngoài giáo hội thay vì tìm cách kiểm soát giáo hội. Cuộc cải cách tại Anh được xem là hoàn tất vào thời điểm này.
Măc dù thiết chế Elizabeth I đã không giành được sự đồng thuận của toàn thể dân Anh thời đó, Anh giáo hiện nay đang phát triển tại nhiều nơi trên thế giới, một thành quả vượt quá mọi sự mong đợi của mọi tín hữu Anh giáo thế kỷ 16 và 17.

Thần học

Trung dung

Quyết định của Henry VIII ly khai khỏi Công giáo Rô-ma khởi phát từ những tranh chấp về thẩm quyền và những lợi ích – nhất là do lập trường của Vương quyền tin rằng các giáo hội quốc gia phải có quyền tự trị - chứ không dính líu gì đến những bất đồng về thần học. Tuy nhiên, từ thời trị vì của Edward VI, và nhất là từ lúc Định chế Tôn giáo thời Elizabeth ra đời, nỗ lực kiến tạo một giáo hội quốc gia vẫn tiếp nối truyền thống đồng thời chấp nhận một số luận điểm thần học và giáo nghi của những nhà cải cách đã giúp hình thành Anh giáo, một cộng đồng các giáo hội với những nét đặc thù bên trong thế giới Cơ Đốc giáo.
Sự phân biệt giữa Cải cách và Công giáo, cũng như sự chọn lựa giữa hai truyền thống luôn là vấn đề gây tranh cãi bên trong các giáo hội thành viên và giữa các giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo. Kể từ khi Phong trào Oxford khởi phát giữa thế kỷ 19, nhiều giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo khởi sự phục hồi các nghi thức và mục vụ tương tự với Công giáo Rô-ma. Suốt thế kỷ qua, trong khi những người Công giáo Anh có khuynh hướng chú trọng đến nghi lễ và nếp cũ, thì những người Anh giáo Tin Lành vẫn tiếp tục duy trì đức tin và sống đạo phù hợp với khuynh hướng Cải cách.

Nguyên tắc định hướng

Đối với nhóm "Thượng giáo hội" (Công giáo Anh), nền thần học của họ không được xác lập bởi Quyền Giáo huấn của giáo hội (như Công giáo Rô-ma), hoặc từ một nhà thần học khai sáng (như Thần học Calvin), cũng không lập nền trên những bản tín điều (như Giáo hội Luther). Đối với họ, văn kiện thần học Anh giáo nguyên thủy là "Sách Cầu nguyện chung", mà họ xem là sự thể hiện một tư duy thần học sâu sắc đi cùng với tinh thần hòa giải và bao dung. Lex orandi, lex credenda ("Luật của sự cầu nguyện chính là luật của đức tin"). Bao hàm trong sách cầu nguyện là những nguyên lý của thần học Anh giáo: Bản Tín điều các Sứ đồ, bản Tín điều Nicene, và bản Tín điều Athanasian (dù bản tín điều này không còn được sử dụng rộng rãi), Kinh Thánh (qua nghi thức đọc Kinh Thánh trong lễ thờ phượng), các thánh lễ, cầu nguyện hằng ngày, sách dạy giáo lý, và quyền kế thừa các sứ đồ. Trong khi đó, đối với những người "Hạ giáo hội" (Anh giáo Tin Lành), bản "Ba mươi chín Tín điều" theo khuynh hướng Cải cách là nền tảng hình thành nền thần học của họ. Trải qua nhiều thế kỷ, hai khuynh hướng này được chấp nhận trong tinh thần cộng sinh bên trong Cộng đồng Anh giáo.
Ban đầu, bản "Ba mươi chín Tín điều" giữ vị trí quan trọng trong thần học và sống đạo Anh giáo. Từ năm 1604, tất cả chức sắc Anh giáo phải tuyên bố tuân giữ bản tín điều này. Ngày nay, bản tín điều chỉ còn được xem là một văn kiện lịch sử, dù từng có thời là nhân tố chủ chốt trong việc định hình bản sắc Anh giáo. Các tín điều được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau. Lấy thí dụ, khi xem xét giáo lý xưng công chính, những người Công giáo Anh cho rằng cần có đức tin, việc lành, và các thánh lễ; còn người theo khuynh hướng Tin Lành tin rằng chỉ có đức tin vào Chúa Giê-xu chúng ta có thể nhận lãnh sự tha thứ của Thiên Chúa, và việc lành là hệ quả tất yếu của một con người đã được thay đổi bởi ân điển.
 
Tuy nhiên, giáo huấn nổi bật nhất của bản tín điều thể hiện ở Điều VI về "sự trọn vẹn của Kinh Thánh", tuyên bố rằng Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi: vì vậy bất cứ điều gì không được viết, không được chứng thực trong Kinh Thánh, thì không ai có nghĩa vụ phải tin như là một phần của Đức tin, hoặc phải xem đó là cần thiết cho sự cứu rỗi. Điều VI đã có ảnh hưởng trên sự luận giải và giảng luận Kinh Thánh của Anh giáo từ lúc ban đầu cho đến nay.
Anh giáo cũng công nhận thẩm quyền của "những nhà thần học chuẩn mực". Sau Thomas Cranmer, nhà thần học có nhiều ảnh hưởng nhất là Richard Hooker, từ sau năm 1660, ông được xem là "cha đẻ" của tinh thần Anh giáo. Theo Hooker, thẩm quyền của Anh giáo đến từ Kinh Thánh, được thông hiểu bởi lý trí (sự thông tuệ và trải nghiệm đối với Thiên Chúa), và truyền thống (những thông lệ và xác tín của giáo hội), đã tạo ảnh hưởng trên Anh giáo hơn bất cứ truyền thống nào khác. Cần nên biết giáo huấn "kiềng ba chân" (Kinh Thánh, lý trí, và truyền thống) thường gán cho Hooker là không đúng. Theo Hooker, Kinh Thánh là nền tảng và là đứng đầu trong trật tự thẩm quyền, rồi mới đến lý trí và truyền thống, hai điều này dù quan trọng nhưng chỉ là thứ yếu, nếu so với Kinh Thánh.
Sự phát triển của Anh giáo đến nhiều xứ sở không nói tiếng Anh, sự đa dạng của sách cầu nguyện, và sự quan tâm ngày càng lớn trong nỗ lực đối thoại với các giáo hội khác, đã dẫn đến sự xem xét lại những giá trị của bản sắc Anh giáo. Nhiều tín hữu Anh giáo xem "Bốn Luận điểm" được thông qua tại Hội nghị Lambeth năm 1888 là "nền tảng và tối cần thiết" cho bản sắc Anh giáo.[ói tóm tắt, Bốn Luận điểm này là Kinh Thánh, chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi; các Tín điều (đặc biệt là Tín điều các Sứ đồ và Tín điều Nicene), là bản tuyên ngôn đầy đủ cho đức tin Cơ Đốc; hai thánh lễ Báp têm và Tiệc Thánh; và quyền kế thừa các Sứ đồ.

Thể chế

Trái với những gì người ta thường nghĩ, quân vương Anh không phải là "đầu" của giáo hội, mà theo luật là "Lãnh đạo tối cao" của Giáo hội Anh, vua Anh không có vị trí nào trong các giáo hội ngoài nước Anh. Vai trò của vương quyền Anh bị giới hạn vào việc bổ nhiệm các Giám mục, kể cả Tổng Giám mục Canterbury; ngay cả như thế, chính phủ cũng chỉ được giao cho một danh sách đã được chọn lọc trước. Quy trình này luôn cần có sự hợp tác và đồng thuận từ các đại diện của giáo hội.
Một đặc điểm khác của Anh giáo là không có một thẩm quyền toàn cầu nào được công nhận. Toàn bộ ba mươi chín khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều tự trị, mỗi khu vực tự chọn thể chế và giới lãnh đạo cho mình. Các khu vực này có thể chọn mô hình giáo hội quốc gia (như Canada, Uganda, hoặc Nhật Bản), hoặc một nhóm các quốc gia (như Tây Ấn, Trung Phi, hoặc Nam Á), hoặc theo đặc điểm địa dư (như Vanuatu và Quần đảo Solomon), v..v... Trong các khu vực này là những giáo phận đặt dưới quyền lãnh đạo của tổng Giám mục. Tất cả các khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều thành lập các giáo hạt do Giám mục lãnh đạo. Giám mục được tấn phong theo quyền kế thừa các sứ đồ. Ngoài chức Giám mục còn có linh mục (tư tế) hoặc mục sư (đối với người theo khuynh hướng Tin Lành), và chấp sự. Không có quy định nào đòi hỏi sống độc thân, mặc dù có nhiều linh mục Công giáo Anh tự nguyện sống độc thân. Kể từ giữa thế kỷ 20, tại hầu hết các khu vực, phụ nữ được phong chức chấp sự, trong một số khu vực phụ nữ được nhận chức linh mục, và Giám mục.
Anh giáo thường được đồng nhất với Giáo hội Anh, nhưng trong thực tế các giáo hội Anh đang có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới. Anh giáo tại một số nơi như Hoa Kỳ, Scotland được biết đến với tên là Giáo hội Giám nhiệm (Episcopal), từ tiếng La-tinh episcopus, có nghĩa là "Giám mục", có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là "người quản lý". Tên gọi này ngụ ý giáo hội được quản trị theo thể chế Giám mục. Mỗi giáo hội cấp quốc gia được đặt dưới quyền lãnh đạo của một Tổng Giám mục, hoặc Giám mục chủ tịch (Presiding Bishop) như trong trường hợp của Giáo hội Giám nhiệm Hoa Kỳ. Giáo hội quốc gia được chia thành các giáo hạt, thường tương ứng với địa gới hành chính của các tiểu bang hoặc các tỉnh.
Các hội đồng của giáo hội được thiết lập trên ba cấp: hội đồng tín hữu (quy tụ những đại biểu từ các giáo sở), hội đồng chức sắc, và hội đồng Giám mục. Giáo hạt, không phải giáo sở, là đơn vị hạt nhân trong cấu trúc thẩm quyền của giáo hội.

Tổng Giám mục Canterbury


Justin Welby, Tổng Giám mục Canterbury thứ 105
Tổng Giám mục Canterbury giữ vị trí danh dự trong Cộng đồng Anh giáo. Giữa giới lãnh đạo của Cộng đồng, ông được nhìn nhận là primus inter pares (đứng đầu nhưng bình đẳng), và không có quyền hạn nào đối với các khu vực bên ngoài nước Anh. Justin Welby trở thành Tổng Giám mục Canterbury thứ 105 vào lễ nhậm chức cử hành tại Đại Giáo đường Canterbury ngày 21 tháng 3, 2013.
Tổng Giám mục Canterbury tổ chức và chủ tọa các Hội nghị Lambeth của Cộng đồng Anh giáo, ông là người quyết định danh sách các Giám mục được mời tham dự Hội nghị. Ông cũng chủ tọa những Tọa đàm Lãnh đạo Cộng đồng Anh giáo (những buổi gặp mặt giữa những người đứng đầu các giáo hội thành viên). Ông cũng đảm nhiệm chức vụ chủ tịch ban thư ký của Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, và Hội đồng Tư vấn Anh giáo.

Các hội nghị

Cộng đồng Anh giáo không có thẩm quyền toàn cầu. Tất cả các tổ chức quốc tế của cộng đồng chỉ có chức trách tư vấn và hợp tác, những nghị quyết của các tổ chức này không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các giáo hội thành viên. Hiện có ba tổ chức chính của Cộng đồng:
  • Hội nghị Lambeth là tổ chức tư vấn quốc tế lâu đời nhất của Cộng đồng. Lần đầu tiên được Tổng Giám mục Longley triệu tập năm 1867 như là một diễn đàn để các Giám mục trong Cộng đồng "thảo luận về những lợi ích thiết thực, và công bố điều chúng tôi xem là những nghị quyết thích hợp định hướng cho những hoạt động của chúng ta trong tương lai." Từ đó, Hội nghị Lambeth được tổ chức mười năm một lần.
  • Hội nghị Lambeth năm 1968 quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Anh giáo. Được triệu tập hai năm một lần, Hội đồng có các đại biểu là Giám mục, mục sư, và tín hữu được chọn lựa từ 38 khu vực. Hội đồng có ban thư ký thường trực, Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, mà Tổng Giám mục Canterbury là chủ tịch.
  • Tọa đàm Lãnh đạo Anh giáo là diễn đàn quốc tế dành cho những người đứng đầu các khu vực. Thành lập năm 1978 bởi Tổng Giám mục Donald Coggan như là một dịp tiện để "đàm đạo, cầu nguyện, và thảo luận sâu".

Truyền giáo

Đến năm 2011, số tín hữu Anh giáo trên thế giới ước tính khoảng 85 triệu người. Trong hai thập niên qua, 11 khu vực ở châu Phi chứng kiến sự tăng trưởng bộc phát. Hiện ở đây có 36, 7 triệu tín hữu Anh giáo, đông hơn ở nước Anh với 26 triệu thuộc viên. Tại hầu hết các quốc gia công nghiệp, số tín hữu liên tục sút giảm kể từ thế kỷ 19.
Từ thế kỷ 17, Giáo hội Anh vẫn là một giáo hội hoạt động tích cực trong lĩnh vực truyền giáo khi họ tìm đến những khu định cư được thiết lập ở Mỹ, Úc, Canada, New Zealand, và Nam Phi để thành lập các giáo sở. Từ năm 1578, lễ Tiệc Thánh đã được cử hành ở Bắc Cực khi tuyên úy Anh giáo Robert Wolfall cùng đi với đoàn thám hiểm của Martin Frobisher đặt chân đến đây.
Nhà thờ Anh giáo đầu tiên được xây dựng ở châu Mỹ là tại Jamestown,Virginia, năm 1607. Đến thế kỷ 18, những nhà thờ Anh giáo xuất hiện tại châu Á, châu Phi, và Mỹ La-tinh.
Các tổ chức truyền giáo của Giáo hội Anh, đầu tiên là Hội Quảng bá Kiến thức Cơ Đốc (SPCK) thành lập năm 1698, trong năm 1701 là Hội Truyền bá Phúc âm ở hải ngoại (CCPAS), và Hội Truyền giáo Giáo hội (CMS) năm 1799.
Thế kỷ 19 chứng kiến sự ra đời của Hội truyền giáo cho Thủy thủ (1856), Liên minh các bà mẹ (1876), và Đạo quân Hội thánh (1882) chủ trương truyền bá phúc âm bằng phương pháp cá nhân chứng đạo. Sang thế kỷ 20, Giáo hội Anh phát triển những hình thức truyền bá phúc âm mới như Alpha Course (1990) khởi phát từ Nhà thờ Trinity Brompton tại Luân Đôn. Đến thế kỷ 21, có những nỗ lực tiếp cận với giới thanh niên và thiếu nhi.

Anh giáo Sydney

Giáo hạt Sydney thuộc Giáo hội Anh giáo Úc - khoảng 50% tín hữu Anh giáo ở Úc thuộc giáo hạt này - thành lập năm 1836 với William Grant Broughton là Giám mục đầu tiên. Được xem là một hiện tượng đặc biệt trong Cộng đồng Anh giáo, Giáo hạt Sydney chấp nhận truyền thống Cải cáchThanh giáo, với niềm xác tín rằng họ đang bảo vệ những giá trị nguyên thủy của cuộc Cải cách Anh khởi phát từ thế kỷ 16. Anh giáo Sydney tin rằng thẩm quyền và sự soi dẫn của Kinh Thánh đã được thể hiện trong bản tuyên tín của Anh giáo gọi là bản "Ba mươi chín Tín điều".

Thể chế

Về thể chế, Anh giáo Sydney nhấn mạnh đến vị trí của các giáo đoàn địa phương. Họ tin rằng vâng theo lời Chúa dạy, con dân Ngài nhóm lại để lắng nghe, luận giải, suy gẫm, và đáp ứng đối với Lời Chúa. Tín hữu có quan hệ mật thiết với giáo đoàn địa phương thay vì quan tâm đến hệ phái hoặc các định chế.
Họ cử hành lễ Tiệc Thánh, nhưng không chú trọng đến yếu tố thần bí như nhiều tín hữu Anh giáo khác. Ngoài ra, tín hữu Anh giáo Sydney còn có sự quan tâm đặc biệt đến trải nghiệm cá nhân trong đời sống đức tin, và sứ mạng truyền bá phúc âm, cũng như tin Kinh Thánh là sự mặc khải từ Chúa, vì vậy không sai lầm. Do đó, những người chống đối gọi họ là thuộc khuynh hướng bảo thủ.

Giáo nghi và Giáo phẩm

Dù hầu hết các giáo đoàn Anh giáo Sydney không còn sử dụng Sách Cầu nguyện chung trong lễ thờ phượng, họ chấp nhận bản Ba mươi chín Tín điều được chép trong Sách Cầu nguyện chung là bản tuyên tín căn bản, thể hiện niềm xác tín rằng tất cả giáo huấn và truyền thống của giáo hội phải đặt dưới thẩm quyền của Kinh Thánh.[3]
Mặc dù linh mục (priest: thầy tư tế) là chức vụ được công nhận rộng rãi trong Cộng đồng Anh giáo, Anh giáo Sydney bác bỏ chức vụ này vì cho rằng chức vụ tư tế chỉ có giá trị trong thời Cựu Ước khi trọng tâm của sự thờ phượng là nghi thức dâng tế lễ tại Đền thờ. Chức vụ tư tế đã được hoàn tất, một lần đủ cả, bởi sự chếtsự phục sinh của Chúa Giê-xu. Như vậy, mục sư chỉ đơn giản là viên chức của giáo hội, được giáo hội ủy nhiệm để giảng Lời Chúa, cử hành các thánh lễ, và quản trị các giáo đoàn.

Đặc điểm

Trong cộng đồng Cơ Đốc giáo, Anh giáo được biết đến với tính đa dạng về thần học và giáo nghi. Các cá nhân, nhóm, giáo sở, giáo hạt hay giáo hội quốc gia có thể chọn lựa hoặc nối kết với truyền thống và thần học Công giáo hoặc chọn hướng ngược lại, đồng hành với các nguyên tắc của cuộc Cải cách.
Một số tín hữu Anh giáo tuân giữ các nghi thức sùng kính của Công giáo La mã như lần hạt cầu kinh, cầu khấn với các thánh. Một số khác đặt tin tưởng vào các sách thứ kinh (deuterocanonical) trong Kinh Thánh, mặc dù giáo lý Anh giáo dạy rằng những sách này nên được đọc trong nhà thờ vì mục đích giáo huấn đạo đức, nhưng không nên dùng cho việc lập thuyết.
Về phần mình, những tín hữu Anh giáo nhấn mạnh đến bản thể Kháng Cách của giáo hội, tập chú vào các tiêu chí của cuộc Cải cách về sự cứu rỗi bởi ân điển của Thiên Chúa qua đức tin của tín hữu, hai thánh lễ của Phúc Âm (Báp têmTiệc Thánh), và Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi.
Sự phân hóa bên trong giáo hội lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 19 khi phong trào Công giáo Anh (Anglo-Catholic) nhấn mạnh vào khía cạnh Công giáo, và phong trào Tin Lành (Evangelical) tập chú vào phương diện Cải cách của giáo hội. Hai nhóm này thường được gọi là "Thượng giáo hội" và "Hạ giáo hội", ngụ ý về cung cách hành lễ của mỗi nhóm trong nghi thức thờ phụng ("Thượng giáo hội" quan tâm đến tính uy nghiêm, trang trọng của nghi thức, trong khi "Hạ giáo hội" thích chọn lựa các nghi thức đơn giản, và xem nghi thức là một cách biểu trưng cho tấm lòng).
Tuy nhiên, hầu hết tín hữu Anh giáo quyết định tự giữ mình để không bị lôi cuốn vào hai cực này, họ thường nhấn mạnh rằng Anh giáo, cần được hiểu theo ý nghĩa chính xác, là con đường trung dung của Cơ Đốc giáo, đi giữa Công giáo và Kháng Cách.

Các dòng tu

Ngay sau thời kỳ phục hưng của phong trào Công giáo, là sự xuất hiện và phát triển của các dòng tu, được thành lập cho những hoạt động từ thiện. Khởi phát từ thập niên 1840 và kéo dài trong thế kỷ sau, các dòng tu có mặt tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Ấn Độ cũng như tại các quốc gia xa xôi khác ở Phi châu, Á châu và khu vực Thái Bình Dương.
Các tu sĩ và nữ tu dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa theo lời thề nguyện sống nghèo khổ, trinh bạch và vâng phục, dành trọn thì giờ cho các hoạt động tôn giáo và phục vụ người nghèo.
Kể từ thập niên 1960, có sự suy giảm nghiêm trọng về số lượng và qui mô các dòng tu trên toàn thể Cộng đồng Anh giáo. Nhiều dòng tu lớn từng hoạt động tại nhiều nước nay chỉ còn lại một tu viện với một ít tu sĩ hay nữ tu già yếu. Số người xin gia nhập các dòng tu là rất ít, và một số dòng tu nay không còn hiện hữu.
Dù vậy, ngày nay vẫn còn có vài ngàn tu sĩ đang hoạt động tại khoảng 200 tu viện trên khắp thế giới.
Điều gây ngạc nhiên là sự phát triển số lượng tu sĩ và nữ tu tại những nơi như Quần đảo Solomon, VanuatuPapua Tân Guinea. Tại đây những tu sĩ và nữ tu thường ở độ tuổi từ 20 đến 25, trẻ hơn độ tuổi trung bình của các đồng lao của họ tại những nơi khác trên thế giới từ 40 đến 50 năm.

Wikiperdia