Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Ki Tô Giáo...

Kitô giáo hoặc Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán-Việt) là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, Abraham là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả Rập (hai tôn giáo còn lại là Do Thái giáo và Hồi giáo), đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước. Kitô hữu tin rằng Giêsu là con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh Cựu Ước. Là độc thần giáo, hầu hết Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong 3 thân vị gọi là Ba Ngôi. Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa cũng như hàng ngàn xác tín và giáo phái khác nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính: Công giáo Roma, Chính Thống giáo Đông phương và Kháng Cách Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất thế giới với hơn 2,1 tỉ tín hữu (chiếm khoảng 34% dân số thế giới).
Từ "Kitô" xuất phát từ chữ Khristos trong tiếng Hi Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu",. Từ "Kitô hữu" có nghĩa là "người có Chúa Kitô hiện hữu (ở trong)", hay "người thuộc về Chúa Kitô".
Trong tiếng Việt, bên cạnh "Kitô" (như Kitô giáo) có gốc từ tiếng Hy Lạp như trên, và thường được sử dụng bởi tín đồ Công giáo, còn có "Cơ Đốc" (như Cơ Đốc giáo) có nguồn gốc từ chữ Nho  và thường được những người theo đạo Tin Lành sử dụng. Trong khi người Công giáo dùng chữ "Kitô" để chỉ Giêsu, người Tin Lành thường dùng chữ "Christ". Ngoài ra, Thiên Chúa giáo cũng thường được sử dụng bởi những người ngoài Kitô giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.

Lịch sử

Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva là tổ phụ của loài người, không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh cứu rỗi cho loài người để loài người được về lại thiên đàng cùng Thiên Chúa.
Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Kitô giáo là Chúa Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng Messiah, và là Chúa Kitô. Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew מָשִׁיחַ (māšiáħ), nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός (Khristos).
Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.
Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Chúa Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Chúa Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, đặt Chúa Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.
Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Chúa Giêsu được gọi là Kitô hữu tại thành Antioch (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolô và các sứ đồ khác.
Theo Tân Ước, Chúa Giêsu tự xưng mình là Đấng Messiah mà dân Do Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó. Ngài cũng bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi chính quyền La Mã vào năm 30. Tuy nhiên Giêsu được Pontius Pilate, tổng đốc người La Mã, gọi là "Vua của dân Do Thái".
Theo các sách Phúc âm, người La Mã buộc tội Giêsu vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái, nhưng một số học giả cho rằng đó là cách mà Đế chế La Mã trừng phạt những người chống đối họ. Kitô hữu tin rằng Cựu Ước đã tiên báo cái chết và sự sỉ nhục mà Giêsu phải chịu như đã chép trong Tân Ước. Sách Isaia ngụ ý rằng Giêsu bị vả, nhổ, đấm vào mặt (Isaia 50.6, 52.14-15; Matthew. 26.67-68; Mark 14.65), bị đánh bằng roi (Isaia. 53.5; John 19.1; Matthew 27.26) cũng như bị sỉ nhục.
Kitô hữu xem sự phục sinh của Giêsu là nền tảng của đức tin và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại Theo Tân Ước, Giêsu là tâm điểm của Kitô giáo, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết và chôn trong mộ, đến ngày thứ ba thì sống lạ]. Theo ký thuật của Tân Ước, sau khi sống lại, Giêsu, trong những lần khác nhau tại những địa điểm khác nhau, đã đến gặp mười một sứ đồ và các môn đồ, trong đó có lần xuất hiện trước sự chứng kiến của "hơn năm trăm người", sau đó thì về trời.
Các sứ đồ của Giêsu là nhân chứng về cuộc đời, lời giảng và sự sống lại của Giêsu. Ngoài ra còn có nhiều môn đồ (đến 70 người) trong đó có Giacôbê, Mark, Luca, Mary Magdalene..., những người này theo Giêsu trong các chuyến du hành và họ chứng kiến khi Giêsu giảng dạy và làm nhiều phép màu. Sau khi Giêsu bị đóng đinh, các sứ đồ và các môn đệ khác công bố rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và họ khởi sự rao giảng thông điệp mới. Các sứ đồ và môn đệ này đã viết các sách Phúc âm và các Thư tín.
Trong số 27 sách của Tân Ước, nhiều quyển được viết bởi Phaolô. Ông là tác giả của mười bốn thư tín và một số truyền thuyết cho rằng ông cũng là tác giả của Thư gửi tín hữu Do Thái. Phúc âm Luca và sách Sách Công vụ Tông đồ được viết bởi Luca, người chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phaolô. Phaolô là môn đồ của Gamaliel (Cv 22.3), một nhân vật có thanh thế trong toà công luận (Cv 5.34-40). Phaolô được xem như là nhà truyền giáo quan trọng nhất rao giảng thông điệp Kitô cho thế giới bên ngoài.

Hội thánh sơ khai

Kitô giáo lan truyền nhanh trong suốt ba thế kỷ an bình của Đế quốc La Mã:
  • thông qua Ai Cập đến Bắc Phi, Sudan
  • thông qua vùng Lưỡng Hà  đến Ba Tư, Nội Á và Ấn Độ
  • thông qua Hy Lạp và La Mã đến Âu Châu
Vào thời kỳ này bên trong Hội thánh chia ra hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Trong khi cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo  như phép cắt bì và một số kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới bên ngoài.
Một trong những nhà trức tác quan trọng đầu tiên của Kitô giáo, Tertullian, đã viết cho một quan tổng đốc Đế chế La Mã về sự phát triển của Kitô giáo tại Carthage rằng mới hôm qua họ chỉ là một nhóm nhỏ, "nay có mặt khắp mọi nơi – các đô thị, hải đảo, trong thành lũy, thị trấn, chợ, ngay cả trong trại lính, tại các bộ tộc, lâu đài, nghị viện; chúng tôi chẳng để lại gì cho quí vị ngoại trừ các nơi thờ phụng các thần linh của quí vị mà thôi." (Bài biện giáo viết tại Carthage, năm 197).
Trong vòng vài thế kỷ đầu tiên, các nhà thần học và triết học khoa bảng như Origen và Augustine đã phát triển nền thần học và triết học Kitô giáo.
Suốt thời kỳ này, trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua các cơn bách hại. Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự bách hại, dẫn đến sự tử đạo của Stephen (Ê-tiên) và James (Giacôbê hoặc Gia-cơ), con trai của Zebedee (Xê-bê-đê)[. Những đợt bách hại ở qui mô lớn hơn, dù không thường xuyên nhưng dữ dội, xảy ra dưới thời trị vì của các hoàng đế La Mã như Nero, Valerian, Diocletian và Galerius. Cuộc đời của những người tử đạo, thà chết chứ không chối bỏ đức tin, trở nên biểu trưng cho đức hạnh cao quí nhất. Danh sách kinh điển Tân Ước được đồng thuận, các bản dịch Kinh Thánh đầu tiên bắt đầu xuất hiện, cùng lúc với hệ thống giáo quyền: Các giám mục thành Alexandria, Antioch và La Mã đều xưng nhận danh hiệu Giáo phụ.
 Hoàng đế La Mã Galerius, trước khi chết, ban chiếu chỉ Galerius ngưng mọi hoạt động bách hại. Hoàng đế Constantine I qui đạo năm 312 và, với chiếu chỉ Milano (313), biến Kitô giáo thành quốc giáo. Dù vậy, các cuộc bách hại được tái lập dưới triều Julian Kẻ bội giáo (361-363), người muốn phục hồi cựu giáo trên lãnh thổ đế quốc; Kitô giáo sau này được công nhận quốc giáo lần nữa dưới triều hoàng đế Theodotius vào năm 382. Những biến cố tương tự cũng xảy ra tại các xứ láng giềng Gruzia và Armenia. Nhưng vì đế quốc Ba Tư luôn tranh chấp với đế quốc La Mã, Kitô hữu phải chịu nhiều áp bức từ Sassanids, người muốn phục hồi đạo Zoroaster.
Tại Đế quốc Ba Tư, vào năm 410 giám mục Seleucia nhận được hỗ trợ, chiếm quyền và thay thế Thượng phụ thành Antioch giữ thẩm quyền cao nhất của Giáo hội Assyria đông phương. Trong thời kỳ ly giáo Nestorian, giáo hội này cắt đứt quan hệ với phương Tây. Trong suốt một thiên niên kỷ đã trở thành giáo hội có nhiều ảnh hưởng tại Châu Á với các giáo phận được thành lập tại những nơi xa xăm như Ấn Độ, đảo Java và Trung Hoa.

Các giáo hội quốc gia


Martin Luther năm 1529, tranh của Lucas Cranach
Sự khẳng định thần tính của Giêsu luôn là vấn đề trọng tâm đối với Kitô hữu thời sơ khai. Nhiều nhà trước tác, bao gồm Justin Martyr và Tertullian chứng thực niềm tin Giêsu là Thiên Chúa, trong khi một số các nhóm Kitô giáo khác từ chối chia sẻ niềm xác tín này. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi Arius thuyết phục được khá đông các giám mục và tín hữu tin rằng Giêsu chỉ là một tạo vật, dù là tạo vật đầu tiên và cao trọng nhất. Cuộc tranh luận được giải quyết tại Công đồng Nicaea, được triệu tập bởi hoàng đế Constantine I, nơi học thuyết của Athanasius, một học giả theo thuyết Ba Ngôi, được công nhận là giáo lý chính thức của Hội thánh (xem tín điều Nicaea, tín điều Athanasius). Dù Constantine I ra lệnh đốt sách của Arius và trục xuất ông, học thuyết của ông vẫn tiếp tục phát triển trong đế quốc suốt vài thập niên và trong vòng các bộ tộc người Đức trong gần hai thế kỷ sau đó.
Các công đồng vẫn tiếp tục được triệu tập để giải quyết các vấn đề thần học. Trong khi các công đồng bàn luận nhằm hợp nhất Kitô giáo thì các hoàng đế ủng hộ các công đồng nhằm bảo vệ sự ổn định chính trị. Một số thuật ngữ thần học được sử dụng tại các công đồng đã bị hiểu nhầm bởi các giáo hội chính thống mà ngôn ngữ chính là tiếng Syria, tiếng Armenia hay tiếng Copt, nảy sinh nhiều dị biệt và dẫn đến các cuộc ly giáo giúp hình thành các giáo hội quốc gia được gọi chung là các giáo hội phương Đông.
Vào thiên niên kỷ thứ hai, Kitô giáo phát triển đến hầu hết thế giới phương Tây, Trung Đông, các vùng Châu Phi và bắt đầu tiếp cận vùng Viễn Đông. Dù vẫn nảy sinh một số bất đồng về thần học và đều được giải quyết tại các công đồng, Kitô giáo đã duy trì được sự đồng thuận về các giáo lý nền tảng trong suốt thời kỳ này. Tuy nhiên, trong thiên niên kỷ sau, các bất đồng về thần học và sống đạo ngày càng trở nên trầm trọng. Cuộc Đại ly giáo năm 1054 chia cắt Hội thánh thành giáo hội phương Tây và giáo hội phương Đông. Trong khi giáo hội phương Tây dần dần được củng cố với quyền lực tập trung vào La Mã thì giáo hội phương Đông với danh xưng "Chính thống" cam kết bảo tồn các truyền thống và đề kháng với mọi thay đổi. Cho đến nay giáo hội phương Đông vẫn duy trì lập trường không đặt giáo hội dưới quyền cai trị của một giám mục duy nhất. Giáo hội phương Đông công nhận Thượng phụ thành Constantinople là "người đứng đầu nhưng bình đẳng" với các giám mục khác đang cai quản các giáo hội tự trị trong gia đình Chính Thống giáo[19].
Tại Âu châu, chịu ảnh hưởng từ Cuộc Cải cách Kháng Cách (Protestant Reformation) vào thế kỷ 16 nhiều giáo hội đã từ chối thần phục Vatican vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào ngai Giáo hoàng cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo[20]. Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận đã được tóm tắt trong năm mệnh đề sola nổi tiếng (Xem Năm Tín lý Duy nhất):
  • Sola Scriptura: Duy Thánh Kinh - thẩm quyền của giáo hội chỉ dựa trên Kinh Thánh được giải thích cách đúng đắn và chuẩn xác chứ không được tách rời khỏi Kinh Thánh
  • Sola Fide: Duy đức tin – con người được cứu rỗi chỉ bởi tin Đấng Christ (Chúa Kitô) chứ không phải bởi công đức hay là nhờ giáo hội và các thánh lễ
  • Sola Gratia: Duy ân điển – Sự cứu rỗi được ban cho từ Thiên Chúa, bởi ân sủng của Ngài, con người không thể làm gì để được cứu
  • Solus Christus: Duy Chúa Kitô - Chúa Giêsu là đấng trung bảo duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người chứ không phải là giáo hội hay các chức sắc
  • Soli Deo Gloria: Vinh hiển chỉ dành cho Thiên Chúa - mọi vinh hiển vì sự cứu rỗi nhân loại chỉ dành cho một mình Thiên Chúa chứ không phải giáo hội hay các chức sắc.
Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người dân Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như các cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến.
Đức tin Công giáo và Kháng Cách đặt chân đến Bắc Mỹ (và sau đó là Châu Úc) bởi các di dân đến từ Châu Âu.
Không theo mô hình trung ương tập quyền như người Công giáo, cũng không tổ chức bộ máy giáo hội trên qui mô quốc gia, các tín hữu Kháng Cách tập trung trong hàng trăm, và sau này hàng ngàn giáo phái (denomination) độc lập với nhau. Đức tin Công giáo và Kháng Cách cũng đến Nam Mỹ và Châu Phi cùng lúc với người Âu châu đi chiếm thuộc địa, đặc biệt là từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào thế kỷ 18 Chính Thống giáo du nhập vào vùng Alaska thuộc Bắc Mỹ qua các di dân đến từ Nga, về sau, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, số lượng di dân người Nga còn đông hơn nhiều.
Bắt đầu từ thế kỷ 19, nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng Kitô giáo, đặc biệt tại Tây Âu, ngày càng trở nên thế tục.

Kitô giáo ngày nay

Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất, với những con số ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉngười xưng nhận niềm tin Kitô giáo; theo sau là Hồi giáo với 1,3 tỉ; số người theo Phật giáo là 1,2 tỉ người và số người vô thần là 1,1 tỉ; Ấn Độ giáo là 900 triệu; tôn giáo cổ truyền Trung Hoa là 394 triệu.
Kitô giáo chia ra nhiều nhánh, bao gồm 1,1 tỉ người Công giáo, 510 triệu người Tin Lành cùng với 84 triệu tín hữu Anh giáo, 216 triệu người Chính thống giáo, con số các tín hữu độc lập (không gia nhập giáo phái nào) là 158 triệu và những giáo hội "ngoại vi" (Chứng nhân Jehova, Cơ Đốc Phục lâm, Mormon...) có khoảng 31,7 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo vì cớ các học thuyết không chính thống của họ.
Tuy Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới và đang duy trì bộ máy truyền giáo khổng lồ, lại không đạt được mức tăng trưởng như các tôn giáo khác cũng như không theo kịp tốc độ gia tăng dân số thế giới. Trong khi dân số toàn cầu tăng 1,25% mỗi năm thì mức tăng trưởng của Kitô giáo chỉ khoảng 1,12%.
Không phải mọi người xưng nhận mình là Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) đều chấp nhận tất cả, hoặc ngay cả hầu hết, các quan điểm thần học của giáo hội của họ. Giống như người Do Thái giáo, Kitô hữu nhân phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Phong trào Khai sáng (Enlightenment) vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất đối với họ là nguyên tắc phân ly giáo hội và nhà nước, chấm dứt sinh hoạt tôn giao của một Kitô hữu được nhà nước bảo hộ đã hiện hữu lâu đời tại nhiều nước ở Âu châu. Ngày nay một người, như là một công dân tự do, có quyền bất đồng với giáo hội của mình về các vấn đề khác nhau và có quyền rời bỏ giáo hội tuỳ thích. Trong thực tế, nhiều người đã bỏ giáo hội và phát triển các hệ thống đạo giáo khác như Thần giáo (Deism), Duy nhất thần giáo (Unitarianism), nhiều người khác chọn lựa trở nên vô thần (atheist) hay bất khả tri (agnostic) hoặc là nhân bản (humanist).
Một số người ở lại Hội thánh lập ra phong trào Tự do (Liberalism) bên trong nền thần học Kháng Cách. Tân phái (Modernism) vào cuối thế kỷ 19 khuyến khích các hình thức tư duy và trình bày mới không theo truyền thống của giáo hội.
Tại Hoa Kỳ và Châu Âu, trào lưu thần học tự do góp phần phát triền tinh thần thế tục trong toàn xã hội. Nhiều Kitô hữu ngưng thực hành các bổn phận tôn giáo, mỗi năm chỉ đến nhà thờ vài lần vào những dịp lễ hội, hoặc hoàn toàn không bước chân vào nhà thờ. Nhiều người trong số họ vẫn nhắc đến lòng sùng đạo của ông bà, nhưng họ lớn lên trong những gia đình, nơi mà các giá trị Kitô giáo không còn được xem trọng. Bên trong họ là một tình cảm pha trộn đối với đức tin Kitô Giáo. Một mặt họ tiếp tục buộc mình vào các giá trị cổ truyền vì lý do bản sắc, mặt khác ảnh hưởng của tinh thần thế tục phương Tây, áp lực từ cuộc sống hằng ngày và từ những người xung quanh bứt giật họ ra khỏi ảnh hưởng còn sót lại của Kitô giáo truyền thống. Hôn nhân giữa Kitô hữu và người không phải Kitô hữu, từng là điều cấm kỵ, nay đã trở nên phổ biến. Tại một số quốc gia có truyền thống Công giáo, nhiều người trở nên tín đồ của thuyết bất khả tri
Vào đầu thế kỷ 20, trào lưu tự do phát triển mạnh tại Âu châu và Bắc Mỹ, đến thập niên 1960, kiểm soát nhiều giáo phái lớn tại Hoa Kỳ và Canada. Dù vậy, ngày nay trào lưu này đã thoái trào. Vào đầu thế kỷ 21, tuy thế giới thế tục, đặc biệt là các phương tiện truyền thông vẫn xem các nhà thần học tự do như là đại biểu và phát ngôn nhân cho Kitô giáo, các nhà thờ theo khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần. Một phần là do những nỗ lực truyền bá Phúc âm, phần khác là vì nhiều người trong số họ đang trở lại với các giá trị Kitô giáo truyền thống.
Một vấn nạn của Kitô giáo là họ đánh mất khả năng chuyển giao các giá trị Kitô giáo cho thế hệ kế tiếp. Trong khi các giáo phái lớn tại Hoa Kỳ, ngoại trừ Baptist Nam phương (Southern Baptist), đang thoái trào thì các định chế tôn giáo theo khuynh hướng Tin Lành (Evangelical) đang phát triển mạnh, đặc biệt là vào hạ bán thế kỷ 20. Tạp chí Thế kỷ Kitô giáo (Christian Century) có khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần để bị thay thế bởi đối thủ đang lớn mạnh có khuynh hướng Tin Lành, tạp chí Kitô giáo Ngày nay

Kitô giáo theo tỷ lệ dân số.
Tại phương Đông Phong trào Khai sáng không tạo lập được nhiều ảnh hưởng. Đối diện với nhiều áp lực từ các xã hội thế tục, giáo hội phải bám trụ vào các xác tín truyền thống để tồn tại, dù vậy, số lượng tín hữu cứ bị bào mòn dần.
Ngày nay, tại Đông Âu và Nga, đang diễn ra tiến trình hồi sinh. Sau nhiều thập kỷ hưng thịnh của thuyết vô thần, nhiều người bắt đầu quan tâm đến Kitô giáo cũng như các tôn giáo khác. Nhiều nhà thờ và tu viện Chính thống giáo được trùng tu và được lấp đầy bởi các tín hữu và tu sĩ. Các giáo phái Kháng Cách cũng tìm đến để truyền bá Phúc âm và thành lập giáo hội. Giáo hội Công giáo tiết lộ họ đã từng có các giáo phận bí mật và nay đang tiến hành các bước nhằm công khai hỗ trợ các nhà thờ tại đây.
Tại Nam Mỹ và Châu Phi, các giáo phái Tin Lành (Evangelical) và Ngũ Tuần (Pentecostal) đang tăng trưởng mạnh và bắt đầu gởi các nhà truyền giáo đến Châu Âu và Bắc Mỹ. Tình trạng tương tự cũng đang xảy ra tại một số nước châu Á.
Hạ bán thế kỷ 20 chứng kiến thần học tân phái phát triển thành chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism). Xảy ra cùng lúc nhưng theo hướng ngược lại là sự phát triển của hiện tượng Đại Giáo đoàn (Megachurch) - tập chú vào tính linh động của các phương pháp trình bày thông điệp Kitô cho người đương thời. Giáo trình Alpha (Alpha Course) là một điển hình cho trào lưu mới này của Kitô giáo.
Một phong trào có ảnh hưởng lớn và đang phát triển mạnh, đặc biệt ở phương Tây và Hoa Kỳ là Phong trào Tin lành (Evangelicalism). Họ có mặt và hoạt động tích cực trong hầu hết các giáo phái Kháng Cách, trong một số trường hợp họ là thành phần đa số. Những người Tin Lành thường chủ trương "xuyên giáo phái", họ thích tạo lập các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức với những người Tin Lành trong các giáo phái khác hơn là quan hệ với những người không Tin Lành trong vòng giáo phái của họ. Tín hữu Tin Lành nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có kinh nghiệm qui đạo của mỗi cá nhân và tin Chúa Giêsu là Cứu Chúa và Thiên Chúa. Họ tin vào sự tái lâm của Chúa Kitô, tính chân xác của Thánh Kinh và tin vào phép mầu.

Giáo lý

Kitô hữu xem Kitô giáo là sự kế thừa và hoàn chỉnh của Do Thái giáo. bKitô giáo mang theo mình nhiều điều từ thần học và giáo nghi của Do Thái giáo như thuyết độc thần (monotheism), niềm tin vào Đấng Messiah (hay Chúa Kitô từ chữ Hy lạp Christos  nghĩa là "Đấng được xức dầu") cùng với một vài hình thức thờ phụng như cầu nguyện, xướng đọc Kinh Thánh, chức vị tư tế (dù hầu hết người Kháng Cách tin rằng chức vị tư tế được ban cho tất cả tín hữu), và ý tưởng cho rằng sự thờ phụng trên đất là "hình bóng" cho sự thờ phụng trên thiên đàng.
Những xác tín căn cốt của Kitô giáo tập chú vào sự hoá thân thành người, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết.Ngày càng có nhiều Kitô hữu tin rằng sự tuyển chọn mà Thiên Chúa dành cho dân Do Thái được ứng nghiệm trọn vẹn qua Chúa Giêsu: Người Do Thái nào không chấp nhận Chúa Giêsu không còn là người được chọn vì họ đã khước từ Ngài như là Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Quan điểm này đang được làm giảm nhẹ hay ngay cả loại trừ tại một số giáo hội nơi người Do Thái được thừa nhận là có một địa vị đặc biệt vì cớ giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc này.
Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Ngài (Ngài chính là Thiên Chúa) đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn lao giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình.
Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi giữa ba nhánh chính của Kitô giáo - Công giáo, Chính Thống giáo và Kháng Cách - khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
  • Thiên Chúa là Ba Ngôi, Thực Thể vĩnh cửu duy nhất hiện hữu trong ba thân vị: Chúa Cha, Chúa Con (Ngôi Lời trở thành xác thịt là Chúa Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Linh.
  • Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản thể đều trọn vẹn trong Ngài.
  • Mary (Maria hoặc Ma-ri), mẹ của Chúa Giêsu, người mang thai và sinh Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã được hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Ngài nhận lãnh từ Mary trí tuệ và ý chí con người và mọi điều khác như một đứa trẻ bình thường nhận lãnh từ mẹ mình.
  • Chúa Giêsu là Đấng Messiah người Do Thái vẫn hằng mong đợi, là Đấng kế thừa ngai Vua David. Ngài ngự bên hữu Chúa Cha để trị vì với tất cả quyền bính vĩnh cửu.Ngài là niềm hi vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại. Hội thánh có thẩm quyền và bổn phận rao giảng Phúc âm trên khắp thế giới.
  • Chúa Giêsu không bao giờ phạm tội. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, tín hữu được tha thứ tội lỗi và được hoà giải với Thiên Chúa. Tín hữu chịu lễ báp têm (rửa tội) như là biểu tượng cho sự đồng chết và đồng sống lại với Chúa Kitô để nhận lãnh sự sống mới. Qua đức tin, họ nhận lãnh lời hứa sẽ sống lại từ kẻ chết để được sống đời đời. Trong danh của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh ngự vào lòng tín hữu, ban cho họ hi vọng, dẫn họ vào sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngài cũng như giúp họ tăng trưởng trong đời sống thánh khiết.
  • Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét toàn thể nhân loại, để tiếp rước những người tin Ngài vào cuộc sống vĩnh cửu kề cận Thiên Chúa.
  • Nhiều Kitô hữu ở phương Tây xem Kinh Thánh là "lời của Thiên Chúa". Những người khác, đặc biệt là ở phương Đông, tin rằng chỉ Chúa Giêsu là "Ngôi Lời của Thiên Chúa", xem Thánh Kinh là quyển sách có thẩm quyền, được soi dẫn bởi Chúa Thánh Linh nhưng được viết bởi con người. Vì dị biệt này mà nhiều người Kitô hữu bất đồng với nhau về mức độ chân xác của Kinh Thánh cũng như về phương cách giải thích.
Đức tin Kitô giáo được đúc kết trong các tín điều, quan trọng nhất là Tín điều Các Sứ đồ và Tín điều Nicaea. Các bản tín điều này được hình thành trong vòng vài thế kỷ sau công nguyên nhằm phản bác các học thuyết dị giáo. Dù vẫn còn tranh luận về vài điểm khác nhau của các bản tín điều, chúng được dùng rộng rãi để bày tỏ các xác tín căn bản của nhiều Kitô hữu.

Wikiperdia

Anh Giáo...

Anh giáo

Anh giáo là một truyền thống thuộc Cơ Đốc giáo bao gồm những giáo hội có mối quan hệ lịch sử với Giáo hội Anh, phần lớn gia nhập Cộng đồng Anh giáo.  
 
Đại Giáo đường Canterbury, Tổng Giám mục Canterbury là nhà lãnh đạo danh dự của Cộng đồng Anh giáo.
 
Đức tin Anh giáo lập nền trên Kinh Thánh, truyền thống của giáo hội các sứ đồ, quyền kế thừa các sứ đồ, và các giáo phụ đầu tiên. Anh giáo là một trong những hệ phái thuộc Cơ Đốc giáo phương Tây, tuyên bố độc lập với Giáo hoàng Rô-ma vào thời điểm xác lập Định chế Tôn giáo thời Elizabeth. Trong số những tuyên tín của Anh giáo vào giữa thế kỷ 16 có nhiều điều khoản tương tự với những xác tín của cuộc Cải cách Kháng Cách. Những cải cách của Giáo hội Anh - định hướng bởi Tổng Giám mục Cantebury, Thomas Cranmer – theo lập trường trung dung giữa hai khuynh hướng cải cách khởi xướng bởi Luther và Calvin. Đến cuối thế kỷ 16, việc giáo hội duy trì thể chế Giám mục cùng nhiều nghi thức truyền thống đã gây bất bình cho những người chủ trương xây dựng giáo hội trên nền thần học Kháng Cách.
Trong nửa đầu thế kỷ 17, qua nỗ lực của những nhà thần học Anh giáo, Giáo hội Anh và các giáo hội liên quan ở Ireland và những khu định cư Mỹ thuộc Anh thể hiện một tín ngưỡng Cơ Đốc theo lập trường trung dung trong thần học, cơ cấu tổ chức, và nghi thức thờ phụng, giữa truyền thống Kháng Cách và truyền thống Công giáo – quan điểm này đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trên bản sắc Anh giáo.
Sau Cách mạng Mỹ, các giáo đoàn Anh giáo tại Hoa Kỳ và Canada thiết lập những giáo hội tự trị với các Giám mục của chính họ, và xây dựng một thể chế tự trị. Về sau, qua sự mở rộng của Đế chế Anh và qua các hoạt động truyền giáo, thể chế này đã trở thành hình mẫu cho các giáo hội tân lập ở châu Phi, châu Đại dương, New Guinea, và khu vực Thái Bình Dương.
Cho đến nay, sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Kháng Cách và Công giáo bên trong truyền thống Anh giáo vẫn tiếp tục là một vấn đề gây tranh luận trong các giáo hội thành viên và trên qui mô Cộng đồng Anh giáo. Tuy nhiên, có một truyền thống đặc trưng của Anh giáo đã giúp kết nối các tín hữu trong cộng đồng Anh giáo trải qua nhiều thế kỷ là Sách Cầu nguyện chung, tuyển tập giáo nghi được phổ biến trong hầu hết các giáo hội thuộc Anh giáo suốt nhiều thế kỷ.
 
 Khởi nguồn
 
Trong khi tín hữu Anh giáo thừa nhận cuộc ly giáo dưới triều Henry VIII (1509-1547) là nhân tố khai sinh Giáo hội Anh như một thực thể độc lập, họ nhấn mạnh đến tính liên tục của giáo hội từ trước cuộc Cải cách Kháng Cách. Bộ máy tổ chức của giáo hội đã được thiết lập tại Hội nghị Herford năm 673, khi các Giám mục Anh lần đầu tiên cùng làm việc trong một thể chế, dưới quyền lãnh đạo của Tổng Giám mục thành Canterbury. Kể từ Định chế tôn giáo thời Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh thừa hưởng di sản từ cả Công giáo và Kháng Cách, với quân vương nước Anh được đặt vào vị trí đứng đầu giáo hội. Tuy nhiên, vua nước Anh không có vai trò nào trong các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo tại các quốc gia khác trên thế giới.
Cuộc cải cách tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua Henry VIII. Nhà vua muốn "hủy bỏ hôn nhân" với vợ là Catherine của Aragon để kết hôn chính thức với Anne Boleyn, với lý do là hoàng hậu không có hoàng tử để thừa kế ngai vàng, nhưng Giáo hoàng Clement VII từ khước. Cùng lúc, nhà vua nhận thấy sự cần thiết và những lợi ích chính trị và kinh tế khi ly khai khỏi Công giáo Rô-ma và thành lập Giáo hội Anh mà nhà vua là người đứng đầu giáo hội. Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua Henry VIII là "Lãnh đạo Tối Cao duy nhất trên đất" của Giáo hội Anh. Các đạo luật khác như luật giải thể tu viện năm 1542 mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công Giáo vào tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc. Điều này tạo nên các nguồn vật chất lớn lao hỗ trợ cho giáo hội mới vừa độc lập trên lãnh thổ nước Anh, dưới quyền cai trị của một quân vương.
Tuy nhiên, người thiết lập nền thần học đặc thù cho Anh giáo là Tổng Giám mục Canterbury Thomas Cranmer với sự tiếp bước của Richard Hooker và Lancelot Andrewes. Cranmer được hưởng nền giáo dục tại Âu châu lục địa, chịu ảnh hưởng tư tưởng cải cách, và vì vậy, mặc dù là một linh mục, ông đã kết hôn. Bởi vì Cranmer và các nhà lãnh đạo khác của Giáo hội Anh được tấn phong bởi các Giám mục theo quyền kế thừa các sứ đồ, các vị này lại truyền chức cho những linh mục khác, Anh giáo được xem là vẫn duy trì quyền kế thừa các sứ đồ.
Trong thời trị vì ngắn ngủi của vua Edward VI, con trai của Henry, Cranmer đã thành công đáng kể trong nỗ lực đem Giáo hội Anh đến gần với lập trường Thần học Calvin. "Sách Cầu nguyện chung" ra đời trong thời gian này. Tuy nhiên, cuộc Cải cách bị đảo ngược đột ngột khi Mary I lên ngôi nữ hoàng sau cái chết của em mình (Edward VI). Chỉ đến thời trị vì của Nữ Hoàng Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh mới được xác lập như là một giáo hội cải cách.
Trong thế kỷ 16, tôn giáo đóng vai trò quan trọng như là một nhân tố nối kết toàn thể xã hội. Những bất đồng tôn giáo chắc chắn sẽ dẫn đến những bất ổn xã hội, những âm mưu thông đồng và cầu viện binh lực nước ngoài để lũng đoạn triều chính hay lật đổ ngai vàng. Giải pháp của Elizabeth I nhằm giải quyết các bất đồng tôn giáo mà không cần đổ máu là xác lập một định chế giáo hội với nghi thức thờ phụng sao cho mọi người đều có thể dự phần, với một hệ thống thần học có thể bảo đảm sự đồng thuận của các khuynh hướng khác nhau về cung cách luận giải Kinh Thánh. Do đó, cần có sự bao dung cho nhiều quan điểm dị biệt và cần xem chúng là hợp pháp. Trong khi phần lớn dân chúng tỏ ra muốn đồng hành với thiết chế tôn giáo này, những nhóm cực đoan ở hai thái cực thần học không chấp nhận, và những rạn nứt bắt đầu xuất hiện bên trên bề mặt của sự hiệp nhất tôn giáo tại Anh.
Trong thế kỷ kế tiếp, có những dịch chuyển quan trọng hoặc về phía phong trào Thanh giáo hoặc về phía các trào lưu thiên về Công giáo. Cần nên biết rằng vào thời ấy, khái niệm về quyền tự do tôn giáo là không thể chấp nhận, vì vậy, cũng dễ hiểu khi mục tiêu của các nhóm đấu tranh là làm thế nào để kiểm soát giáo hội chứ không phải để được hưởng quyền tự do tôn giáo. Theo tiêu chuẩn của Âu châu lục địa, mức độ bạo động tôn giáo tại Anh tuy không cao, nhưng cũng đủ làm mất mạng một quân vương (Charles I) và một Tổng Giám mục Canterbury (William Laud). Kết quả sau cùng của cuộc chính biến phục hồi vương quyền của Charles II là nỗ lực trở lại các lý tưởng thời kỳ Elizabeth I. Tóm lại, trong giai đoạn này, đa số cư dân tại Anh chọn lựa con đường trung dung, còn đứng tại hai cực đối nghịch nhau là các nhóm Công giáo Rô-ma và Thanh giáo, mỗi nhóm đều đủ mạnh để tự bảo vệ mình khỏi bị nuốt chửng bởi nhóm kia, và đủ khôn ngoan để có thể tồn tại bên ngoài giáo hội thay vì tìm cách kiểm soát giáo hội. Cuộc cải cách tại Anh được xem là hoàn tất vào thời điểm này.
Măc dù thiết chế Elizabeth I đã không giành được sự đồng thuận của toàn thể dân Anh thời đó, Anh giáo hiện nay đang phát triển tại nhiều nơi trên thế giới, một thành quả vượt quá mọi sự mong đợi của mọi tín hữu Anh giáo thế kỷ 16 và 17.

Thần học

Trung dung

Quyết định của Henry VIII ly khai khỏi Công giáo Rô-ma khởi phát từ những tranh chấp về thẩm quyền và những lợi ích – nhất là do lập trường của Vương quyền tin rằng các giáo hội quốc gia phải có quyền tự trị - chứ không dính líu gì đến những bất đồng về thần học. Tuy nhiên, từ thời trị vì của Edward VI, và nhất là từ lúc Định chế Tôn giáo thời Elizabeth ra đời, nỗ lực kiến tạo một giáo hội quốc gia vẫn tiếp nối truyền thống đồng thời chấp nhận một số luận điểm thần học và giáo nghi của những nhà cải cách đã giúp hình thành Anh giáo, một cộng đồng các giáo hội với những nét đặc thù bên trong thế giới Cơ Đốc giáo.
Sự phân biệt giữa Cải cách và Công giáo, cũng như sự chọn lựa giữa hai truyền thống luôn là vấn đề gây tranh cãi bên trong các giáo hội thành viên và giữa các giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo. Kể từ khi Phong trào Oxford khởi phát giữa thế kỷ 19, nhiều giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo khởi sự phục hồi các nghi thức và mục vụ tương tự với Công giáo Rô-ma. Suốt thế kỷ qua, trong khi những người Công giáo Anh có khuynh hướng chú trọng đến nghi lễ và nếp cũ, thì những người Anh giáo Tin Lành vẫn tiếp tục duy trì đức tin và sống đạo phù hợp với khuynh hướng Cải cách.

Nguyên tắc định hướng

Đối với nhóm "Thượng giáo hội" (Công giáo Anh), nền thần học của họ không được xác lập bởi Quyền Giáo huấn của giáo hội (như Công giáo Rô-ma), hoặc từ một nhà thần học khai sáng (như Thần học Calvin), cũng không lập nền trên những bản tín điều (như Giáo hội Luther). Đối với họ, văn kiện thần học Anh giáo nguyên thủy là "Sách Cầu nguyện chung", mà họ xem là sự thể hiện một tư duy thần học sâu sắc đi cùng với tinh thần hòa giải và bao dung. Lex orandi, lex credenda ("Luật của sự cầu nguyện chính là luật của đức tin"). Bao hàm trong sách cầu nguyện là những nguyên lý của thần học Anh giáo: Bản Tín điều các Sứ đồ, bản Tín điều Nicene, và bản Tín điều Athanasian (dù bản tín điều này không còn được sử dụng rộng rãi), Kinh Thánh (qua nghi thức đọc Kinh Thánh trong lễ thờ phượng), các thánh lễ, cầu nguyện hằng ngày, sách dạy giáo lý, và quyền kế thừa các sứ đồ. Trong khi đó, đối với những người "Hạ giáo hội" (Anh giáo Tin Lành), bản "Ba mươi chín Tín điều" theo khuynh hướng Cải cách là nền tảng hình thành nền thần học của họ. Trải qua nhiều thế kỷ, hai khuynh hướng này được chấp nhận trong tinh thần cộng sinh bên trong Cộng đồng Anh giáo.
Ban đầu, bản "Ba mươi chín Tín điều" giữ vị trí quan trọng trong thần học và sống đạo Anh giáo. Từ năm 1604, tất cả chức sắc Anh giáo phải tuyên bố tuân giữ bản tín điều này. Ngày nay, bản tín điều chỉ còn được xem là một văn kiện lịch sử, dù từng có thời là nhân tố chủ chốt trong việc định hình bản sắc Anh giáo. Các tín điều được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau. Lấy thí dụ, khi xem xét giáo lý xưng công chính, những người Công giáo Anh cho rằng cần có đức tin, việc lành, và các thánh lễ; còn người theo khuynh hướng Tin Lành tin rằng chỉ có đức tin vào Chúa Giê-xu chúng ta có thể nhận lãnh sự tha thứ của Thiên Chúa, và việc lành là hệ quả tất yếu của một con người đã được thay đổi bởi ân điển.
 
Tuy nhiên, giáo huấn nổi bật nhất của bản tín điều thể hiện ở Điều VI về "sự trọn vẹn của Kinh Thánh", tuyên bố rằng Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi: vì vậy bất cứ điều gì không được viết, không được chứng thực trong Kinh Thánh, thì không ai có nghĩa vụ phải tin như là một phần của Đức tin, hoặc phải xem đó là cần thiết cho sự cứu rỗi. Điều VI đã có ảnh hưởng trên sự luận giải và giảng luận Kinh Thánh của Anh giáo từ lúc ban đầu cho đến nay.
Anh giáo cũng công nhận thẩm quyền của "những nhà thần học chuẩn mực". Sau Thomas Cranmer, nhà thần học có nhiều ảnh hưởng nhất là Richard Hooker, từ sau năm 1660, ông được xem là "cha đẻ" của tinh thần Anh giáo. Theo Hooker, thẩm quyền của Anh giáo đến từ Kinh Thánh, được thông hiểu bởi lý trí (sự thông tuệ và trải nghiệm đối với Thiên Chúa), và truyền thống (những thông lệ và xác tín của giáo hội), đã tạo ảnh hưởng trên Anh giáo hơn bất cứ truyền thống nào khác. Cần nên biết giáo huấn "kiềng ba chân" (Kinh Thánh, lý trí, và truyền thống) thường gán cho Hooker là không đúng. Theo Hooker, Kinh Thánh là nền tảng và là đứng đầu trong trật tự thẩm quyền, rồi mới đến lý trí và truyền thống, hai điều này dù quan trọng nhưng chỉ là thứ yếu, nếu so với Kinh Thánh.
Sự phát triển của Anh giáo đến nhiều xứ sở không nói tiếng Anh, sự đa dạng của sách cầu nguyện, và sự quan tâm ngày càng lớn trong nỗ lực đối thoại với các giáo hội khác, đã dẫn đến sự xem xét lại những giá trị của bản sắc Anh giáo. Nhiều tín hữu Anh giáo xem "Bốn Luận điểm" được thông qua tại Hội nghị Lambeth năm 1888 là "nền tảng và tối cần thiết" cho bản sắc Anh giáo.[ói tóm tắt, Bốn Luận điểm này là Kinh Thánh, chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi; các Tín điều (đặc biệt là Tín điều các Sứ đồ và Tín điều Nicene), là bản tuyên ngôn đầy đủ cho đức tin Cơ Đốc; hai thánh lễ Báp têm và Tiệc Thánh; và quyền kế thừa các Sứ đồ.

Thể chế

Trái với những gì người ta thường nghĩ, quân vương Anh không phải là "đầu" của giáo hội, mà theo luật là "Lãnh đạo tối cao" của Giáo hội Anh, vua Anh không có vị trí nào trong các giáo hội ngoài nước Anh. Vai trò của vương quyền Anh bị giới hạn vào việc bổ nhiệm các Giám mục, kể cả Tổng Giám mục Canterbury; ngay cả như thế, chính phủ cũng chỉ được giao cho một danh sách đã được chọn lọc trước. Quy trình này luôn cần có sự hợp tác và đồng thuận từ các đại diện của giáo hội.
Một đặc điểm khác của Anh giáo là không có một thẩm quyền toàn cầu nào được công nhận. Toàn bộ ba mươi chín khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều tự trị, mỗi khu vực tự chọn thể chế và giới lãnh đạo cho mình. Các khu vực này có thể chọn mô hình giáo hội quốc gia (như Canada, Uganda, hoặc Nhật Bản), hoặc một nhóm các quốc gia (như Tây Ấn, Trung Phi, hoặc Nam Á), hoặc theo đặc điểm địa dư (như Vanuatu và Quần đảo Solomon), v..v... Trong các khu vực này là những giáo phận đặt dưới quyền lãnh đạo của tổng Giám mục. Tất cả các khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều thành lập các giáo hạt do Giám mục lãnh đạo. Giám mục được tấn phong theo quyền kế thừa các sứ đồ. Ngoài chức Giám mục còn có linh mục (tư tế) hoặc mục sư (đối với người theo khuynh hướng Tin Lành), và chấp sự. Không có quy định nào đòi hỏi sống độc thân, mặc dù có nhiều linh mục Công giáo Anh tự nguyện sống độc thân. Kể từ giữa thế kỷ 20, tại hầu hết các khu vực, phụ nữ được phong chức chấp sự, trong một số khu vực phụ nữ được nhận chức linh mục, và Giám mục.
Anh giáo thường được đồng nhất với Giáo hội Anh, nhưng trong thực tế các giáo hội Anh đang có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới. Anh giáo tại một số nơi như Hoa Kỳ, Scotland được biết đến với tên là Giáo hội Giám nhiệm (Episcopal), từ tiếng La-tinh episcopus, có nghĩa là "Giám mục", có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là "người quản lý". Tên gọi này ngụ ý giáo hội được quản trị theo thể chế Giám mục. Mỗi giáo hội cấp quốc gia được đặt dưới quyền lãnh đạo của một Tổng Giám mục, hoặc Giám mục chủ tịch (Presiding Bishop) như trong trường hợp của Giáo hội Giám nhiệm Hoa Kỳ. Giáo hội quốc gia được chia thành các giáo hạt, thường tương ứng với địa gới hành chính của các tiểu bang hoặc các tỉnh.
Các hội đồng của giáo hội được thiết lập trên ba cấp: hội đồng tín hữu (quy tụ những đại biểu từ các giáo sở), hội đồng chức sắc, và hội đồng Giám mục. Giáo hạt, không phải giáo sở, là đơn vị hạt nhân trong cấu trúc thẩm quyền của giáo hội.

Tổng Giám mục Canterbury


Justin Welby, Tổng Giám mục Canterbury thứ 105
Tổng Giám mục Canterbury giữ vị trí danh dự trong Cộng đồng Anh giáo. Giữa giới lãnh đạo của Cộng đồng, ông được nhìn nhận là primus inter pares (đứng đầu nhưng bình đẳng), và không có quyền hạn nào đối với các khu vực bên ngoài nước Anh. Justin Welby trở thành Tổng Giám mục Canterbury thứ 105 vào lễ nhậm chức cử hành tại Đại Giáo đường Canterbury ngày 21 tháng 3, 2013.
Tổng Giám mục Canterbury tổ chức và chủ tọa các Hội nghị Lambeth của Cộng đồng Anh giáo, ông là người quyết định danh sách các Giám mục được mời tham dự Hội nghị. Ông cũng chủ tọa những Tọa đàm Lãnh đạo Cộng đồng Anh giáo (những buổi gặp mặt giữa những người đứng đầu các giáo hội thành viên). Ông cũng đảm nhiệm chức vụ chủ tịch ban thư ký của Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, và Hội đồng Tư vấn Anh giáo.

Các hội nghị

Cộng đồng Anh giáo không có thẩm quyền toàn cầu. Tất cả các tổ chức quốc tế của cộng đồng chỉ có chức trách tư vấn và hợp tác, những nghị quyết của các tổ chức này không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các giáo hội thành viên. Hiện có ba tổ chức chính của Cộng đồng:
  • Hội nghị Lambeth là tổ chức tư vấn quốc tế lâu đời nhất của Cộng đồng. Lần đầu tiên được Tổng Giám mục Longley triệu tập năm 1867 như là một diễn đàn để các Giám mục trong Cộng đồng "thảo luận về những lợi ích thiết thực, và công bố điều chúng tôi xem là những nghị quyết thích hợp định hướng cho những hoạt động của chúng ta trong tương lai." Từ đó, Hội nghị Lambeth được tổ chức mười năm một lần.
  • Hội nghị Lambeth năm 1968 quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Anh giáo. Được triệu tập hai năm một lần, Hội đồng có các đại biểu là Giám mục, mục sư, và tín hữu được chọn lựa từ 38 khu vực. Hội đồng có ban thư ký thường trực, Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, mà Tổng Giám mục Canterbury là chủ tịch.
  • Tọa đàm Lãnh đạo Anh giáo là diễn đàn quốc tế dành cho những người đứng đầu các khu vực. Thành lập năm 1978 bởi Tổng Giám mục Donald Coggan như là một dịp tiện để "đàm đạo, cầu nguyện, và thảo luận sâu".

Truyền giáo

Đến năm 2011, số tín hữu Anh giáo trên thế giới ước tính khoảng 85 triệu người. Trong hai thập niên qua, 11 khu vực ở châu Phi chứng kiến sự tăng trưởng bộc phát. Hiện ở đây có 36, 7 triệu tín hữu Anh giáo, đông hơn ở nước Anh với 26 triệu thuộc viên. Tại hầu hết các quốc gia công nghiệp, số tín hữu liên tục sút giảm kể từ thế kỷ 19.
Từ thế kỷ 17, Giáo hội Anh vẫn là một giáo hội hoạt động tích cực trong lĩnh vực truyền giáo khi họ tìm đến những khu định cư được thiết lập ở Mỹ, Úc, Canada, New Zealand, và Nam Phi để thành lập các giáo sở. Từ năm 1578, lễ Tiệc Thánh đã được cử hành ở Bắc Cực khi tuyên úy Anh giáo Robert Wolfall cùng đi với đoàn thám hiểm của Martin Frobisher đặt chân đến đây.
Nhà thờ Anh giáo đầu tiên được xây dựng ở châu Mỹ là tại Jamestown,Virginia, năm 1607. Đến thế kỷ 18, những nhà thờ Anh giáo xuất hiện tại châu Á, châu Phi, và Mỹ La-tinh.
Các tổ chức truyền giáo của Giáo hội Anh, đầu tiên là Hội Quảng bá Kiến thức Cơ Đốc (SPCK) thành lập năm 1698, trong năm 1701 là Hội Truyền bá Phúc âm ở hải ngoại (CCPAS), và Hội Truyền giáo Giáo hội (CMS) năm 1799.
Thế kỷ 19 chứng kiến sự ra đời của Hội truyền giáo cho Thủy thủ (1856), Liên minh các bà mẹ (1876), và Đạo quân Hội thánh (1882) chủ trương truyền bá phúc âm bằng phương pháp cá nhân chứng đạo. Sang thế kỷ 20, Giáo hội Anh phát triển những hình thức truyền bá phúc âm mới như Alpha Course (1990) khởi phát từ Nhà thờ Trinity Brompton tại Luân Đôn. Đến thế kỷ 21, có những nỗ lực tiếp cận với giới thanh niên và thiếu nhi.

Anh giáo Sydney

Giáo hạt Sydney thuộc Giáo hội Anh giáo Úc - khoảng 50% tín hữu Anh giáo ở Úc thuộc giáo hạt này - thành lập năm 1836 với William Grant Broughton là Giám mục đầu tiên. Được xem là một hiện tượng đặc biệt trong Cộng đồng Anh giáo, Giáo hạt Sydney chấp nhận truyền thống Cải cáchThanh giáo, với niềm xác tín rằng họ đang bảo vệ những giá trị nguyên thủy của cuộc Cải cách Anh khởi phát từ thế kỷ 16. Anh giáo Sydney tin rằng thẩm quyền và sự soi dẫn của Kinh Thánh đã được thể hiện trong bản tuyên tín của Anh giáo gọi là bản "Ba mươi chín Tín điều".

Thể chế

Về thể chế, Anh giáo Sydney nhấn mạnh đến vị trí của các giáo đoàn địa phương. Họ tin rằng vâng theo lời Chúa dạy, con dân Ngài nhóm lại để lắng nghe, luận giải, suy gẫm, và đáp ứng đối với Lời Chúa. Tín hữu có quan hệ mật thiết với giáo đoàn địa phương thay vì quan tâm đến hệ phái hoặc các định chế.
Họ cử hành lễ Tiệc Thánh, nhưng không chú trọng đến yếu tố thần bí như nhiều tín hữu Anh giáo khác. Ngoài ra, tín hữu Anh giáo Sydney còn có sự quan tâm đặc biệt đến trải nghiệm cá nhân trong đời sống đức tin, và sứ mạng truyền bá phúc âm, cũng như tin Kinh Thánh là sự mặc khải từ Chúa, vì vậy không sai lầm. Do đó, những người chống đối gọi họ là thuộc khuynh hướng bảo thủ.

Giáo nghi và Giáo phẩm

Dù hầu hết các giáo đoàn Anh giáo Sydney không còn sử dụng Sách Cầu nguyện chung trong lễ thờ phượng, họ chấp nhận bản Ba mươi chín Tín điều được chép trong Sách Cầu nguyện chung là bản tuyên tín căn bản, thể hiện niềm xác tín rằng tất cả giáo huấn và truyền thống của giáo hội phải đặt dưới thẩm quyền của Kinh Thánh.[3]
Mặc dù linh mục (priest: thầy tư tế) là chức vụ được công nhận rộng rãi trong Cộng đồng Anh giáo, Anh giáo Sydney bác bỏ chức vụ này vì cho rằng chức vụ tư tế chỉ có giá trị trong thời Cựu Ước khi trọng tâm của sự thờ phượng là nghi thức dâng tế lễ tại Đền thờ. Chức vụ tư tế đã được hoàn tất, một lần đủ cả, bởi sự chếtsự phục sinh của Chúa Giê-xu. Như vậy, mục sư chỉ đơn giản là viên chức của giáo hội, được giáo hội ủy nhiệm để giảng Lời Chúa, cử hành các thánh lễ, và quản trị các giáo đoàn.

Đặc điểm

Trong cộng đồng Cơ Đốc giáo, Anh giáo được biết đến với tính đa dạng về thần học và giáo nghi. Các cá nhân, nhóm, giáo sở, giáo hạt hay giáo hội quốc gia có thể chọn lựa hoặc nối kết với truyền thống và thần học Công giáo hoặc chọn hướng ngược lại, đồng hành với các nguyên tắc của cuộc Cải cách.
Một số tín hữu Anh giáo tuân giữ các nghi thức sùng kính của Công giáo La mã như lần hạt cầu kinh, cầu khấn với các thánh. Một số khác đặt tin tưởng vào các sách thứ kinh (deuterocanonical) trong Kinh Thánh, mặc dù giáo lý Anh giáo dạy rằng những sách này nên được đọc trong nhà thờ vì mục đích giáo huấn đạo đức, nhưng không nên dùng cho việc lập thuyết.
Về phần mình, những tín hữu Anh giáo nhấn mạnh đến bản thể Kháng Cách của giáo hội, tập chú vào các tiêu chí của cuộc Cải cách về sự cứu rỗi bởi ân điển của Thiên Chúa qua đức tin của tín hữu, hai thánh lễ của Phúc Âm (Báp têmTiệc Thánh), và Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi.
Sự phân hóa bên trong giáo hội lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 19 khi phong trào Công giáo Anh (Anglo-Catholic) nhấn mạnh vào khía cạnh Công giáo, và phong trào Tin Lành (Evangelical) tập chú vào phương diện Cải cách của giáo hội. Hai nhóm này thường được gọi là "Thượng giáo hội" và "Hạ giáo hội", ngụ ý về cung cách hành lễ của mỗi nhóm trong nghi thức thờ phụng ("Thượng giáo hội" quan tâm đến tính uy nghiêm, trang trọng của nghi thức, trong khi "Hạ giáo hội" thích chọn lựa các nghi thức đơn giản, và xem nghi thức là một cách biểu trưng cho tấm lòng).
Tuy nhiên, hầu hết tín hữu Anh giáo quyết định tự giữ mình để không bị lôi cuốn vào hai cực này, họ thường nhấn mạnh rằng Anh giáo, cần được hiểu theo ý nghĩa chính xác, là con đường trung dung của Cơ Đốc giáo, đi giữa Công giáo và Kháng Cách.

Các dòng tu

Ngay sau thời kỳ phục hưng của phong trào Công giáo, là sự xuất hiện và phát triển của các dòng tu, được thành lập cho những hoạt động từ thiện. Khởi phát từ thập niên 1840 và kéo dài trong thế kỷ sau, các dòng tu có mặt tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Ấn Độ cũng như tại các quốc gia xa xôi khác ở Phi châu, Á châu và khu vực Thái Bình Dương.
Các tu sĩ và nữ tu dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa theo lời thề nguyện sống nghèo khổ, trinh bạch và vâng phục, dành trọn thì giờ cho các hoạt động tôn giáo và phục vụ người nghèo.
Kể từ thập niên 1960, có sự suy giảm nghiêm trọng về số lượng và qui mô các dòng tu trên toàn thể Cộng đồng Anh giáo. Nhiều dòng tu lớn từng hoạt động tại nhiều nước nay chỉ còn lại một tu viện với một ít tu sĩ hay nữ tu già yếu. Số người xin gia nhập các dòng tu là rất ít, và một số dòng tu nay không còn hiện hữu.
Dù vậy, ngày nay vẫn còn có vài ngàn tu sĩ đang hoạt động tại khoảng 200 tu viện trên khắp thế giới.
Điều gây ngạc nhiên là sự phát triển số lượng tu sĩ và nữ tu tại những nơi như Quần đảo Solomon, VanuatuPapua Tân Guinea. Tại đây những tu sĩ và nữ tu thường ở độ tuổi từ 20 đến 25, trẻ hơn độ tuổi trung bình của các đồng lao của họ tại những nơi khác trên thế giới từ 40 đến 50 năm.

Wikiperdia

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

F-35 có còn là “xương sống” của phi đội máy bay chiến đấu Mỹ ?

Việc Bộ Quốc phòng Mỹ hủy kế hoạch đưa máy bay F-35 sang dự Triển lãm hàng không Farnborough diễn ra ở Anh hồi tháng 7 đã đẩy chương trình này vào tình trạng “khóc dở mếu dở” .
 
Kỳ tích công nghệ tạo ra sản phẩm

Tiêm kích tàng hình F-35 là loại máy bay chiến đấu đa năng, có thể thực hiện các cuộc tấn công trên đất liền, trên biển và cả nhiệm vụ do thám. F-35 được thiết kế và xây dựng bởi một tổ hợp công nghiệp hàng không do tập đoàn Lockheed Martin dẫn đầu và các thành viên khác là BAE Systems và Northrop Grumman. Các nước tham gia tài trợ dự án này gồm có Anh, Italia, Australia, Canada, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ.
Máy bay tiêm kích F-35 tại căn cứ không quân Eglin ở bang Florida (Mỹ). Ảnh: Dailymail.co.uk
 
F-35 có 3 phiên bản khác nhau gồm F-35A, F-35B và F-35C. Trong đó, F-35A có khả năng cất và hạ cánh như máy bay chiến đấu thông thường; F-35B cất và hạ cánh thẳng đứng như trực thăng và F-35C triển khai trên các tàu sân bay. Tất cả các phiên bản của F-35 đều được trang bị công nghệ tàng hình siêu việt, có khả năng tránh radar, đạt tốc độ siêu âm và gắn camera giúp phi công có thể quan sát 3600 từ buồng lái xuống mặt đất. F-35 thực hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên ngày 15/12/2006.
Dự án F-35 được ca ngợi là kỳ tích công nghệ tạo ra sản phẩm có thể thống trị bầu trời và được kỳ vọng sẽ trở thành xương sống của phi đội máy bay chiến đấu Mỹ trong tương lai. Quân đội Mỹ có kế hoạch đặt mua tổng cộng 2.443 chiếc F-35 các loại với tổng kinh phí 391,2 tỷ USD để trang bị cho không quân, thủy quân lục chiến và hải quân. Việc chuyển giao các máy bay này cho quân đội Mỹ dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2037.
Ngoài Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ, các khách hàng tiềm năng của F-35 còn bao gồm Hàn Quốc (đặt mua 40 chiếc) và đặc biệt là Nhật Bản (đặt mua 42 chiếc). Hai quốc gia này vẫn đang có kế hoạch mua các tiêm kích F-35 trang bị cho không quân. Thêm vào đó, các tàu đổ bộ tiên tiến của Hàn Quốc và tàu khu trục chở trực thăng của Nhật Bản cũng được thiết kế để có thể mang máy bay F-35B, phiên bản cất cánh ngắn/hạ cánh thẳng đứng.
Tuy nhiên, tới nay dự án F-35 đã bị chậm tiến độ tới 7 năm so với kế hoạch, do chi phí bị đội lên quá lớn. Ước tính, chi phí phụ trội để sản xuất F-35 đã tăng hơn hai lần so với dự toán ban đầu. Báo cáo ngày 21/8/2013 của Phòng kiểm toán chính phủ cho biết, chi phí đầu tư cho sản xuất F-35 đã lên tới gần 400 tỷ USD và mỗi năm sẽ còn “đội” thêm khoảng 12,7 tỷ USD nữa. Dự án đã phát triển “quá lớn tới nỗi không được phép thất bại”, Gordon Adams, giáo sư tại Đại học Mỹ và từng là quan chức Nhà Trắng, nhận định.
Tiêm kích nào lấp chỗ trống cho F-35?
Việc Bộ Quốc phòng Mỹ hủy kế hoạch đưa máy bay siêu tiêm kích tàng hình đa năng F-35 thuộc thế hệ thứ 5 sang dự Triển lãm hàng không Farnborough diễn ra ở Anh hồi tháng 7 vừa qua một lần nữa “đổ thêm dầu vào lửa,” làm bùng lên những ý kiến chỉ trích nhằm vào dự án chế tạo F-35 được coi là phức tạp và tốn kém nhất thế giới. Trước đó, F-35 liên tiếp gặp nhiều lỗi kỹ thuật khác nhau trong các chuyến bay thử nghiệm. Ngày 3/7/2014, quân đội Mỹ cho biết, đã cho đình bay toàn bộ phi đội siêu máy bay chiến đấu F-35 sau khi xảy ra vụ cháy trên một chiếc máy bay F-35A của không quân tại căn cứ không quân Eglin ở bang Florida, Mỹ. Trước đó, ngày 23/6, một chiếc F-35A đã bốc cháy khi phi công đang chuẩn bị cất cánh trong một chuyến bay huấn luyện.
Ngoài những điểm yếu về kỹ thuật, chuyên môn, chương trình F-35 còn dính hàng loạt bê bối về tài chính, chậm tiến độ. Thậm chí có những thông tin cho rằng, tập đoàn Lockheed Martin đã “đi đêm” để có được dự án này và Bộ Quốc phòng Mỹ đang “cố đấm ăn xôi” để dự án tiếp tục được triển khai (?!).
F-35 bay huấn luyện
Giới phân tích nhận định, việc trì hoãn chương trình F-35 sẽ tạo cơ hội cho Trung Quốc khắc phục sự tụt hậu của lực lượng không quân nước này và có thể giành được ưu thế trước đối thủ tiềm năng của mình. Theo chuyên gia Vasily Kashin thuộc Trung tâm Phân tích chiến lược và công nghệ (trụ sở tại Moscow, Nga), hiện tại, Trung Quốc đã bắt đầu sản xuất hàng loạt máy bay tiêm kích J-15 và đã đặt mua các máy bay chiến đấu Su-35S từ Nga. Việc nghiên cứu tính năng và đặc tính của Su-35S sẽ mở đường cho phiên bản nâng cấp J-15 với nhiều tính năng hơn.
Ông Vasily Kashin cho biết, trên thực tế, việc áp dụng đặc điểm thiết kế của Su-35S và các hệ thống của nó (như radar có khả năng phát hiện mục tiêu ở khoảng cách 400 km) sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển loại máy bay tiêm kích tiên tiến nhất thế giới. “Vì vậy, không loại trừ khả năng các tàu sân bay trang bị tiêm kích J-15 hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ xuất hiện trước khi F-35 của Nhật Bản đạt được khả năng sẵn sàng tác chiến”, ông Vasily Kashin nhận định.
Trong bối cảnh trên, Bộ Quốc phòng Mỹ đã tính tới một số giải pháp nhằm thay thế chương trình F-35. Theo themilitary.com, thay vì tiếp tục phát triển F-35, Lầu Năm góc đã cho nâng cấp máy bay tiêm kích F/A-18 Super Hornet, đồng thời cho phép kéo dài tuổi thọ của máy bay cường kích A-10 hiện đang phục vụ trong quân đội Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ cũng có thể khởi động lại dây chuyền sản xuất máy bay tiêm kích F-22. Tuy nhiên, việc khởi động lại chương trình F-22 cũng rất tốn kém và không giải quyết được các vấn đề của Hải quân hay Lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ. Hơn nữa, luật pháp Mỹ không cho phép xuất khẩu F-22, đồng nghĩa nó không giải quyết được các vấn đề ngoại giao nảy sinh khi chương trình F-35 bị hủy bỏ.
(Theo Tri Thức)

Thứ Hai, 4 tháng 8, 2014

Tiềm lực quân sự của Việt Nam

Theo đánh giá của Globalfirepower, Việt Nam hiện là sức mạnh quân sự xếp thứ 23 thế giới. Sự đánh giá này dựa vào trên 50 tiêu chí mà dưới đây là một vài tham số tiêu biểu.

Bất kể một quốc gia nào, khi có tình huống chiến tranh, nguồn nhân lực vẫn là quan trọng nhất. Nguồn nhân lực sẽ quyết định khả năng bổ sung quân số cũng như khả năng cung cấp các nguồn lực để tiếp tục cuộc chiến.
Theo đánh giá của tạp chí nói trên, các số liệu về nguồn nhân lực của Việt Nam như sau:
Tổng dân số: 92.477.857 người
Nhân lực có sẵn cho chiến đấu: 50.645.430 người
Người đủ tiêu chuẩn phục vụ: 41.503.949
Số lượng đến tuổi quân hàng năm: 1.635.084
Lực lượng quân đội thường trực: 412.000
Lực lượng quân dự bị: 5.040.000
Lực lượng Lục quân
Lục quân Việt Nam không được tổ chức riêng một Bộ Tư lệnh như các quốc gia khác mà trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lực lượng Lục quân hiện nay gồm 4 quân đoàn chủ lực, 7 quân khu và 1 Bộ Tư lệnh vùng (Hà Nội).
Bộ binh Quân đoàn 4 trong một cuộc tập trận.
Bộ binh Quân đoàn 4 trong một cuộc tập trận.
Lục quân Việt Nam đã có quá trình xây dựng và trưởng thành lâu dài. Suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Lục quân là lực lượng tác chiến chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Theo số liệu của Globalfirepower, các vũ khí chính của Lục quân Việt Nam gồm:
Xe tăng: 3200
Xe bọc thép chiến đấu: 2100
Pháo tự hành: 520
Pháo xe kéo: 2200
Pháo phản lực: 1300
Sức mạnh Không quân
Không quân Việt Nam chỉ mới ra đời từ kháng chiến chống Mỹ do Liên Xô và Trung Quốc viện trợ máy bay và đào tạo phi công giúp. Trong kháng chiến chống Mỹ, Không quân Việt Nam chủ yếu chỉ có các máy bay tiêm kích Mig-17, Mig-19 và Mig-21.
Ngoại trừ Mig-21, các loại Mig-17 và Mig-19 được đánh giá là lạc hậu và yếu kém hơn các loại máy bay Mỹ như F-4, F-105, F-5… Tuy nhiên, Không quân Việt Nam đã cố gắng sáng tạo các lối đánh hiệu quả để đánh chặn các cuộc không kích ồ ạt của Mỹ.
Máy bay Su-30 của Việt Nam ném bom hỗ trợ tấn công mặt đất trong một cuộc tập trận.
Máy bay Su-30 của Việt Nam ném bom hỗ trợ tấn công mặt đất trong một cuộc tập trận.
Kết thúc cuộc chiến, theo Wikipedia, tỉ lệ rơi máy bay của hai bên là 1/1,3 nghĩa là cứ 1 máy bay Việt Nam đổi 1,3 máy bay Mỹ.
Không quân Việt Nam cũng đã tiến hành các trận đánh gây tiếng vang trên thế giới như trận tập kích tàu chiến Mỹ ở Biển Đông. Đặc biệt là các tiêm kích Mig-21 đã bắn rơi được B-52, trở thành lực lượng Không quân duy nhất trên thế giới hạ được pháo đài bay B-52.
Cho đến hiện nay, Không quân Việt Nam đã phát triển hơn thời chống Mỹ rất nhiều với đủ cả tiêm kích lẫn máy bay tấn công mặt đất, vận tải… Sau đây là số liệu cụ thể:
Tiêm kích đánh chặn: 209
Máy bay ném bom: 209
Vận tải: 139
Huấn luyện: 26
Trực thăng: 141
Trực thăng tấn công: 25
Sức mạnh Hải quân
Hải quân Việt Nam cũng chỉ mới ra đời từ trong kháng chiến chống Mỹ với những tàu thuyền nhỏ do Liên Xô viện trợ. Do lực lượng Hải quân Việt Nam yếu nên trong suốt cuộc chiến chống Mỹ, Hải quân Mỹ gần như làm chủ Biển Đông và vịnh Bắc Bộ.
Trận đánh nổi tiếng nhất của Hải quân Việt Nam là trận đánh của 3 tàu phóng lôi Việt Nam với tàu khu trục Maddox ở trong vùng biển vịnh Bắc Bộ hồi đầu tháng 8/1964.
Pháo phản lực BM-21 của Việt Nam.
Pháo phản lực BM-21 của Việt Nam.
Hiện nay, Hải quân Việt Nam đang được ưu tiên hiện đại hóa để đảm bảo đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước. Sau đây là số liệu:
Tổng số tàu: 65
Tàu khu trục: 7
Tàu hộ tống: 9
Tàu ngầm: 1
Tàu phòng thủ ven biển: 21
Tàu phóng lôi: 8
Nguồn dầu khí
Mặc dù có những tiến bộ trong công nghệ chiến tranh, xăng dầu vẫn là huyết mạch của bất kỳ lực lượng chiến đấu nào. Do vậy nguồn xăng dầu cũng là một yếu tố quan trọng phải xét đến trong sức mạnh tổng hợp của một quân đội. Số liệu của Globalfirepower cho biết:
Sản lượng dầu sản xuất: 300.500 thùng/ngày
Lượng tiêu thụ: 325.000 thùng/ngày
Trữ lượng dầu đã được chứng minh: 4.400.000.000 thùng/ngày
Hệ thống hậu cần
Chiến tranh đòi hỏi cung cấp ngày càng nhiều nguồn lực trong các trận chiến. Khả năng hậu cần lại phụ thuộc vào các năng lực vận tải như hệ thống đường sá, nút giao thông cho phép quân đội có thể linh hoạt điều động lực lượng.
Bên cạnh đó, một yếu tố khác không kém phần quan trọng là lực lượng lao động của quốc gia. Lực lượng này sẽ phản ánh trực tiếp cho năng lực cung cấp các nhu yếu phẩm cho chiến tranh như bom đạn, thuốc men, phụ tùng thiết bị hay đơn giản nhất là quần áo của quân đội. Lực lượng lao động lớn sẽ cung cấp các nguồn lực cho quân đội để có thể duy trì sức chiến đấu lâu hơn.
Các số liệu được liệt kê là:
Lực lượng lao động: 52.290.000 người
Đội tàu buôn bán: 579
Các cảng quan trọng: 6
Đường bộ: 180.549 km
Đường sắt: 2.632 km
Sân bay: 45
Nguồn tài chính
Bất kể sức mạnh quân sự nào với số lượng vũ khí ra sao, chiến tranh vẫn chịu sự chi phối quan trọng của nguồn tài chính. Trong sức mạnh tài chính nói chung, có 4 vấn đề được nêu ra là ngân sách chi cho quốc phòng để duy trì quân đội, nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và sức mua tương đương.
Trong đó, nợ nước ngoài phản ánh tình trạng tài chính của cả quốc gia. Một quốc gia nợ nhiều thì khó có thể mạnh chi cho quốc phòng.
Ngân sách quốc phòng: 3.365.000.000 USD
Nợ nước ngoài: 6.395.000.000 USD
Dự trữ ngoại hối và vàng: 26.110.000.000 USD
Sức mua tương đương: 336,2 USD
(sưu tầm)

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2014

Cách mạng Rumani, 1989 và vụ xử tử vợ chồng nhà độc tài N. Ceausescu

Dưới quyền Ceausescu, Rumani là một đất nước công an trị ngộp thở với nhiều nghịch lý và người dân phải trả giá đắt. Vào thập niên 1980, trong khi các nước cộng sản Đông Âu liên tục vay tiền từ phương Tây để nhập hàng tiêu dùng thì ngược lại, hàng hóa sản xuất tại Rumani được dành để xuất khẩu, người dân phải thắt lưng buộc bụng, làm việc cả ngày nghỉ để nhà nước có điều kiện trả nợ phương Tây, lấy điểm cho lãnh tụ. Nhà nhà chỉ được dùng bóng đèn 40 watt để dành điện xuất khẩu qua Ý, Đức. Thịt, đường, bột mì, bơ, trứng… luôn khan hiếm, nông thôn phải dùng ngựa kéo vì thiếu xăng, mùa màng được gặt bằng liềm hái cầm tay. Để tăng dân số, thiếu nữ 15 tuổi được cho lấy chồng, phụ nữ bị cấm phá thai nếu có dưới 4 con và dưới 45 tuổi, mỗi tháng họ phải khám sức khỏe sinh sản một lần trước sự chứng giám của một cán bộ Đảng.

Ceausescu được sánh ngang Stalin và Kim Nhật Thành ở độ vĩ cuồng và tệ sùng bái cá nhân. Ông duy ý chí, ‘hệ thống hóa’ nông thôn, khiến hàng chục ngàn làng xã bị san bằng, nông dân mất đất và mất gốc. Ông thích to, cho phá cả một thành phố cổ rộng bằng Venice – hủy 40.000 tòa nhà, hàng chục nhà thờ và đài tưởng niệm – để lấy đất xây một cung điện lớn gấp ba Cung điện Versailles nhưng cực xấu, có tên Nhà Nhân dân, cạnh Đại lộ Chủ nghĩa Xã hội Chiến thắng dài 5 km, và một quảng trường chứa được 500.000 người. Ông được tôn lên hàng thần thánh với những danh xưng đến Stalin cũng phải chào thua: Người Cầm lái Thông thái, Con của Mặt trời, Dòng Danube Tư tưởng, Thiên tài của Dãy núi Carpathians…

Dưới nóng, trên lạnh

Rumani không thể miễn nhiễm mãi được. Ceaucescu đã làm hết sức để cô lập đất nước với các nước CS đang sụp đổ xung quanh. Nhưng dù vậy, người dân Rumani vẫn biết rằng Bức tường Bá Linh đã đổ và các nước láng giềng đã lật đổ chế độ cộng sản nhanh đến chóng mặt chỉ trong vài tháng cách mạng.

Một cách kín đáo, người Rumani có thể nghe đài BBC, Đài Châu Âu Tự do, và đã được nghe người Tiệp, người Đông Đức, người Bulgaria nói về cái hay của dân chủ và gọi những lãnh tụ cũ của họ là bọn côn đồ thối nát.

Tuy vậy, Ceausescu vẫn có vẻ bình chân như vại, như không có gì đáng bận tâm. Mới cuối tháng 11, ông còn được bầu với số phiếu tuyệt đối để lãnh đạo Đảng Cộng sản Rumani thêm một nhiệm kỳ nữa, như đã từng được bầu nhiều lần trước đó. Lễ nhậm chức cũng diễn ra như thường lệ, với những nghi thức thường lệ. Ông vẫn lề mề đọc bài diễn văn lê thê ba tiếng đồng hồ, được điểm xuyết bằng 34 lần khán giả “tự phát” đồng loạt đứng dậy vỗ tay ầm ĩ suốt mấy phút. Tiếng tung hô vang dội nhất là khi ông tuyên bố:
“Tương lai của chủ nghĩa xã hội còn dài. Nó chỉ chết khi nào quả lê rụng từ cành táo!”

Ceausescu vẫn nắm trong tay tất cả mọi lực lượng trấn áp đã giúp ông giữ vững quyền lực trong suốt một phần tư thế kỷ. Ông vẫn có vẻ là kẻ bất khả xâm phạm. Không giống các đồng nghiệp đã đổ ở Bá Linh, ở Praha, ở Sofia, ông có ý chí và lực lượng để chiến đấu, tiêu diệt kẻ thù, duy trì vị trí.

Nhưng, khi hồi kết đã điểm thì ngay cả một chế độ độc tài mạnh bạo nhất, đáng sợ nhất cũng sụp đổ chỉ trong năm ngày.

Cách Mạng bắt đầu từ thành phố buồn

Ít khi có cuộc cách mạng nào lại bắt đầu ở một nơi ảm đạm hơn thế. Thành phố Timisoara vùng Transylvania chỉ có một phố cổ nhỏ ở trung tâm, xưa thì đẹp, giờ thì điêu tàn, và vài kiến trúc baroque còn lại từ trước 1919, khi thành phố còn thuộc Hungary với tên Temesvar. Lúc này, phần lớn thành phố chỉ gồm những khu tập thể tồi tàn, càng lúc càng xuống cấp, dành cho khoảng 250.000 dân.

Cũng như tất cả các đô thị khác tại Rumani, Timisoara nghèo nàn thảm hại, lại ô nhiễm trầm trọng vì những nhà máy hóa chất, những công trình công nghiệp kế cận, và hoạt động canh nông luôn thải các loại phân bón độc hại vào nguồn nước. Một con kênh, có lẽ trước đó rất duyên dáng chảy xuyên qua thành phố, nay chỉ còn là một dòng nước bẩn thỉu, hôi hám, trẻ con bị cấm lại gần.

Khoảng một phần ba cư dân thành phố là người gốc Hungary. Mặc dù có những xung đột truyền thống và mặc dù Ceausescu tìm cách kiềm chế văn hóa và di sản của sắc dân Hungary, họ vẫn hòa hợp và đồng cam cộng khổ với người Rumani địa phương.

Tu sĩ ‘bất trị’

Một vị mục sư ít nói nhưng mẫu mực đã châm ngọn lửa mồi. Laszlo Tokes, 37 tuổi, tóc đen, cao, khiêm tốn, trầm tĩnh, nhưng ẩn phía sau là một ý chí bằng thép. Từ tháng 1, 1987, ông là giáo sĩ điều hành Giáo hội Cải cách Hungary, chi nhánh Timisoara.

Một thời gian dài, ông bị xem là phần tử gây rối trong mắt cả chế độ lẫn hàng giáo phẩm Giáo hội Cải cách, trong khi hàng giáo phẩm, cũng như tất cả các tổ chức tôn giáo khác tại Rumani, lại thỏa hiệp với chính quyền trong mấy thập niên qua. Mục sư Tokes mới bị sa thải khỏi giáo xứ Dej trước khi về Timisoara, vì giới cầm quyền, cả đạo lẫn đời, đều cho rằng ông đã công khai ủng hộ quá mức những yêu sách văn hóa của sắc dân Hungary, như cho trẻ em được học bằng tiếng mẹ đẻ. Ông được đổi về Timisoara để thử việc tạm thời, với răn đe là không được dính líu đến chính trị.

Giáo xứ lúc này đang khó khăn. Số giáo dân giảm xuống chỉ còn một nhóm nhỏ. Tokes cho rằng đó là do lỗi của mục sư tiền nhiệm, Leo Leuker, người mà ông gọi là “mục sư đỏ” vì đồng lõa với chế độ.

Chẳng bao lâu sau, ông tạo được uy tín như một người giảng thuyết giỏi, có sức hút, và nhà thờ lại tấp nập giáo dân cũ lẫn mới đến nghe ông giảng. Ông thường xung khắc với các giám mục bề trên. Thật lạ lùng, có lần ông bị cho là phạm lỗi chỉ vì dám trích dẫn đoạn sau đây trong Sách Daniel [Cựu Ước]:

”Lệnh cho các ngươi, hỡi mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ: Khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn dây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. Kẻ nào không sấp mình thờ lạy thì tức khắc sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.”

Bề trên cho rằng cộng đoàn giáo dân đã xem câu này như lời đả kích Ceausescu. Vì vậy, họ cảnh cáo ông.

Ông gặp rắc rối còn lớn hơn vào tháng 9, 1988, khi công khai ủng hộ lá thư của một giáo dân viết gửi Giám mục cai quản giáo hạt Arad, Laszlo Papp, một trong những vị cao nhất trong hàng giáo phẩm Giáo hội Cải cách. Lá thư chỉ trích chủ trương hệ thống hóa nông thôn của chế độ, được cho là nếu thực hiện sẽ hủy diệt hàng trăm cộng đồng làng xã tại Transylvania.

Mục sư Tokes bị bắt, bị mật vụ Securitate tra tấn và nhắc nhở không được làm chính trị. Hành vi kế tiếp mà bề trên xem như giọt nước làm tràn ly là khi mục sư Tokes đề nghị tổ chức một thánh lễ chung, cho thanh niên cả hai Giáo hội Cải cách và Giáo hội Công giáo.

Mật vụ hành hung, công an đứng ngó

Tháng 3, 1989, Giám mục Papp bắt đầu các thủ tục pháp lý để sa thải mục sư và đuổi ông khỏi nhà. Nhưng ông đã tự bào chữa tại tòa, vụ này kéo dài và nhận được sự chú ý của một số báo chí tôn giáo, của Thế giới vụ Đài BBC và của Đài Phát thanh Châu Âu Tự do.

Một đêm cuối tháng 11, chỉ vài ngày trước khi bản kháng cáo của ông được tòa xem xét, bốn gã bịt mặt, tay cầm gậy và dao đột nhập vào nhà ông. Mục sư Tokes bị đánh đập, trong khi con trai ông, Mate, có mặt tại chỗ. Người vợ đang mang thai của ông chạy ra kêu cứu các công an mặc sắc phục đứng trước nhà, vốn đã canh nhà ông mấy tháng trước đó. Nhưng công an đã bất động. Bên trong thì bọn côn đồ, rõ ràng là nhân viên mật vụ Securitate, cứ ung dung đánh.

Kháng cáo của ông bị bác bỏ vào ngày 7 tháng 12 và trong bài giảng cuối cùng vào Chủ nhật 10 tháng 12, ông xin cộng đoàn đến làm nhân chứng cho vụ trục xuất ông khỏi nhà, sẽ diễn ra vào ngày thứ Sáu 15 tháng 12 sắp tới.

Giáo dân đã đến

Nhà thờ và nhà xứ bên cạnh là cụm nhà màu xám, không có gì đặc sắc, được xây cuối thế kỷ 19 gần trung tâm thị trấn. Nhà thờ nằm giữa một quảng trường nhỏ, nhưng dễ dàng nhìn thấy từ con lộ chính và cách trạm xe điện gần đó vài mét.

Thoạt đầu, chỉ có khoảng 35 giáo dân trong giáo xứ của Mục sư Tokes đến tụ tập bên ngoài, trong khi gia đình ông vẫn ở trong nhà thờ. Và rồi một điều chưa tưng có đã xảy ra. Khi quần chúng trong thị trấn truyền tai nhau tin tức về cuộc biểu tình thì càng lúc càng có nhiều người kéo đến hiện trường.

Mục sư Tokes kể: “Ban đầu chỉ là anh chị em trong giáo xứ. Nhưng rồi, càng lúc càng có đông người từ khắp Timisoara tụ lại. Họ có thể là bất cứ ai, người gốc Hungary, gốc Rumani, người theo Đạo Chính thống, Tin lành hay bất cứ tôn giáo nào. Người từ mọi cộng đoàn tụ lại. Họ quên cả lý do phản đối ban đầu, và nói chung, họ chuyển qua chống chế độ.”

Người mỗi lúc một đông, các Bí thư Đảng ủy địa phương cũng chẳng biết phản ứng ra sao. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố, Petre Mot, liên lạc xin chỉ thị từ thủ đô Bucharest. Ông được yêu cầu kéo dài thời gian và tiếp tục thương lượng, với dự kiến là đám đông rồi sẽ tự tan hàng.

Nhưng, đám đông đã không giải tán.

Đả đảo Ceausescu! Dân là chủ!

Thời tiết lúc đó dễ chịu khác thường, so với thời tiết bình thường giữa tháng 12, nhiệt độ vẫn trên số 0. Nhiều người Rumani nói chính thời tiết ấm áp đã làm nên cách mạng. Họ không hẳn nói đùa. Thật vậy, nếu trời lạnh hơn nhiều thì nhóm người vây quanh nhà thờ của Mục sư Tokes chắc đã không tăng nhanh chỉ qua một đêm đến mức đó.

Gần như cả ngày thứ Bảy là một cuộc đối đầu không dễ dàng chút nào. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố trở lại, cố giải tán đám biểu tình. Ông hứa trả lại nhiệm sở cho vị chủ chăn, nhưng vì ông không chịu viết lời hứa trên giấy trắng mực đen nên đám đông đã la ó, huýt sáo phản đối. Họ không còn đòi hỏi cơm áo hoặc bánh mì, hoặc chỉ ủng hộ Mục sư Laszlo Tokes nữa. Họ bắt đầu hô to, lặp đi lặp lại những khẩu hiệu “Đả đảo Ceausescu!”, “Đả đảo độc tài!”, “Dân là chủ!”, và “Tự do ngay lập tức!”

Giữa chiều, công an và mật vụ Securitate đứng thành một hàng dài trên đại lộ, có thể dễ dàng thấy được từ quảng trường trước nhà thờ. Nhưng khoảng sau một giờ họ đã rời vị trí. Lajos Varga, một trong những người biểu tình kể lại rằng: ”Đó là lần đầu tiên chúng tôi thấy mình có quyền lực. Chúng tôi đã đuổi được mật vụ Securitate đi chỗ khác. Chúng tôi như được sống trong giấc mơ táo bạo, như được sống trong cõi thần tiên chưa từng biết.”

Chủ nhật, 17 tháng 12: Chiếm trụ sở Đảng

Ceausescu đã đích thân cho phép cuộc biểu tình tiếp tục vì nghĩ nó sẽ tự tan rã. Nhưng bây giờ thì lệnh cho phép bị đảo ngược. Sáng hôm sau, Chủ nhật, công an và mật vụ Securitate bắt đầu bắt người, khởi từ vòng ngoài đám đông.

Đám đông trở nên hỗn loạn và nóng giận. Có ít nhất 2.500 người tham gia biểu tình, trong một quốc gia mà biểu tình tự phát là điều gần như xưa nay chưa từng có. Hầu hết bắt đầu rời nhà thờ. Họ diễu hành về trung tâm thành phố, dọc theo đại lộ dẫn về Nhà hát lớn và trụ sở Đảng Cộng sản, đầu não quyền lực tại địa phương của nhà độc tài.

Đón họ là một hàng binh lính, công an chống bạo động và một xe cứu hỏa. Họ phun vòi rồng vào đám đông nhưng những người biều tình vẫn ùa vào tòa nhà, làm lực lượng an ninh phải rút lui. Họ đập phá tầng trệt tòa nhà, ném bất cứ thứ gì của Đảng họ tìm thấy vào lửa.

Trong vài giờ sau đó, người biểu tình kiểm soát trung tâm Timisoara, nhưng họ không có kế hoạch hành động nào. Họ xộc vào hiệu sách, đốt cháy các tác phẩm của Ceausescu. Họ ném bom xăng vào những chiếc xe có vẻ là xe công vụ. Họ châm lửa đốt văn phòng Ủy ban Nhân dân và tiêu hủy hàng ngàn hồ sơ, giấy tờ.

Sau khi người biểu tình rời nhà thờ của Giáo hội Cải cách, mật vụ Securitate đã bắt giữ vị mục sư, vợ ông, Edit Tokes, đang mang thai bảy tháng, và đứa con trai. Mục sư bị đánh bầm dập quanh người và trên mặt.

Môi rách, mắt bầm, mục sư bị đưa tới gặp Ion Cumpanasu, người đứng đầu Sở Tôn giáo địa phương và bị dọa rằng vợ ông sẽ no đòn, trừ khi ông ký vào tờ giấy trắng, xem như đơn chấp nhận bị sa thải và trục xuất. Sau đó, gia đình mục sư được chở trên các xe riêng tới làng Minev, một làng hẻo lánh trong hạt Salaj, nơi tạm trú mới được chỉ định cho họ.***

“Bắn đi chứ!” 

Khi vợ chồng Ceausescu nghe rằng đám đông bạo động đã kiểm soát trung tâm Timisoara, họ nhảy dựng lên. Cuối giờ chiều Chủ nhật 17 tháng 12, Chủ tịch Ceausescu triệu tập ngay người đứng đầu các lực lượng an ninh. Trong đó có Bộ trưởng Nội vụ Tudor Postelnicu, lãnh đạo cơ quan mật vụ Securitate Julian Vlad, và người đứng đầu quân đội kiêm Bộ trưởng Quốc phòng Tướng Vasile Milea. Vào thời điểm đó, khi lãnh đạo các nước cộng sản Đông Âu khác đang thương lượng với phe đối lập để rút lui an toàn, thì buổi họp bất thường được ghi băng lại dưới đây cho thấy Ceausescu vẫn quyết tâm nã súng vào phe chống đối. Ông và vợ không hề muốn nhượng bộ.

CEAUSESCU: Tôi cho rằng các nhóm từ nước ngoài đã nhúng tay tổ chức vụ này. Từ Đông sang Tây ai cũng nói Rumani phải thay đổi. Biết điều này nên một số phần tử đã lợi dụng gây rối. Công an, quân đội đã xử lý quá kém! Tôi có nói chuyện với các đồng chí ở Timisoara và bảo họ phải triển khai lực lượng với xe tăng ngay trung tâm thành phố. Nhưng tôi có ấn tượng là các đơn vị của Bộ Nội vụ, của công an và của mật vụ lại không có vũ khí!

POSTELNICU [Bộ trưởng Nội vụ]: Ngoại trừ bộ đội biên phòng, những đơn vị khác đều không mang vũ khí.

CEAUSESCU: Tại sao lại thế? Tôi đã bảo tất cả phải có vũ khí cơ mà! Tại sao lại phái họ đi mà không cho súng đạn, ai ra cái lệnh này? Tôi cứ nghĩ mật vụ đi đâu thì phải mang theo vũ khí chứ. Các anh sai họ đi đánh người bằng nắm tay à? Lực lượng an ninh kiểu gì thế? Dân quân cũng phải được vũ trang. Đó là luật!

POSTELNICU: Thưa đồng chí Tổng Bí thư, dân quân thì được vũ trang ạ.

CEAUSESCU: Nhưng nếu có súng thì phải bắn đi chứ! Sao lại để dân chúng tấn công ngược lại? Sao các anh để cho tình trạng đó xảy ra? Sĩ quan của anh ở đó đã làm gì, hở Milear? Sao chúng nó không can thiệp? Sao chúng nó không bắn?

MILEA [Bộ trưởng Quốc phòng]: Tôi không cho họ đạn ạ!

CEAUSESCU: Sao lại không cho đạn? Nếu không cho đạn thì cho chúng nó về nhà khuất mắt cho rồi! Bộ trưởng Quốc phòng gì lạ thế? Còn anh nữa, Bộ trưởng Nội vụ gì lạ thế, Postelnicu?

ELENA (vợ Ceausescu) : Tình hình rất nghiêm trọng… Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Nội vụ đã không xử lý đúng cách.

CEAUSESCU: Chỉ có vài đứa côn đồ muốn phá hoại chủ nghĩa xã hội và các anh lại tạo điều kiện cho chúng. Fidel Castro quả là đúng! Không thể khóa miệng kẻ thù bằng thuyết giảng như thầy tu, mà phải thiêu sống chúng mới được!

ELENA: Bọn này chết nhát!

CEAUSESCU: Còn hơn cả chết nhát! Với tư cách là tư lệnh tối cao, tôi coi như các anh ở đây đã phạm tội phản bội, chống lại quyền lợi tổ quốc, chống lại quyền lợi nhân dân, chống lại quyền lợi chủ nghĩa xã hội. Ngay bây giờ … chúng tôi sa thải Bộ trưởng Quốc phòng, Nội vụ, và lãnh đạo mật vụ Securitate. Ngay bây giờ, tôi sẽ trực tiếp chỉ huy quân đội. Hãy chuẩn bị quyết định để thi hành ngay đêm nay. Phải giết cho được bọn côn đồ, chứ không chỉ đánh! [Với ba quan chức] Còn các anh, có biết tôi sẽ làm vì với các anh không? Đưa các anh ra bắn! Rõ ràng là không thể giữ trật tự bằng gậy gộc. Tôi sẽ ra lệnh ngay bây giờ là tất cả phải có súng, có đạn!

ELENA: Phải bắn gục chúng, rồi đưa chúng vào hầm giam của mật vụ. Không đứa nào được thấy ánh sáng lần nữa. Phải áp dụng biện pháp mạnh. Không thể nào nhân nhượng!

CEAUSESCU: Ta sẽ chiến đấu đến cùng!

VLAD [Lãnh đạo mật vụ Securitate]: Chúng tôi cứ nghĩ đó chỉ là chuyện cục bộ, có giới hạn, có thể giải quyết mà không cần súng đạn.

CEAUSESCU: Tôi không cho là nên bắn đạn giả. Đứa nào đã bước vào trụ sở Đảng thì không được phép sống sót bước ra!

Các quan chức có mặt đều khúm núm, nhận mình sai và hứa sẽ hành động quyết liệt hơn trong những ngày tới. Postelnicu nói: ”Tôi bảo đảm với ông… tình trạng tương tự sẽ không bao giờ lặp lại nữa.” Milea hứa: “Xin hãy tin tưởng chúng tôi. Quả là tôi đã không đánh giá được đúng mức nguy hiểm ngay từ đầu.” Vlad thì trấn an lãnh tụ rằng từ nay trở đi “sẽ cố gắng hết sức để xứng đáng với niềm tin ông dành cho.”

Một cách miễn cưỡng, Ceausescu tái bổ nhiệm ba ông vào vị trí cũ nhưng vẫn tiếp tục đay nghiến: “Rất tốt… như vậy là chúng ta sẽ thử thêm lần nữa. Đúng không các đồng chí?”

Súng nổ và tin đồn

Đêm hôm đó, các đơn vị quân đội với đạn thật đã giành lại quyền kiểm soát đường phố Timisoara, họ bắn vào thường dân không thương tiếc. Mật vụ Securitate bắt hơn 700 người.

Sáng hôm sau, Ceausescu lên đường đi thăm Iran như đã dự định từ trước – Iran là một trong vài nước ít ỏi vẫn còn tiếp đón ông như một vị khách. Nhưng ông chỉ lên đường sau khi nghe báo cáo từ tư lệnh quân đội và mật vụ là Timisoara đã yên tĩnh trở lại. Như thường lệ, ông để vợ nắm quyền Rumani khi mình đi vắng.

Khoảng 60 thường dân đã chết đêm đó tại Timisoara. Đó là cuộc biểu tình chống cộng sản đẫm máu nhất từng thấy tại Rumani. Nhưng tin đồn thì lại lan ra nhanh chóng rằng một cuộc thảm sát khủng khiếp đã diễn ra.

Đài Phát thanh Châu Âu Tự do, dù chỉ nghe lén lút nhưng được thính giả cả nước tin cậy, đưa ra số người chết khoảng từ 4.000 đến 20.000. Dĩ nhiên, truyền thông nhà nước không đề cập gì đến Timisoara nên người dân Rumani lại càng tin vào điều họ nghe qua đài phát thanh nước ngoài và tin đồn.

Thầy giáo Alex Serban kể lại: “Chúng tôi đều tin rằng một cuộc thảm sát khủng khiếp đã xảy ra tại vùng Transylvania. Nó làm chúng tôi cảm thấy tuyệt vọng, một cảm giác mà từ trước đến giờ chúng tôi chưa hề có. Nó làm chúng tôi thấy mình không được tiếp tục thờ ơ, thụ động. Nhưng phải nói là chúng tôi vẫn cần một cú hích nữa, trước khi có thể làm được điều gì đó.”

Sai lầm thứ nhất: Đại mít-tinh

Thứ Tư, 20 tháng 12. Nicolae Ceausescu từ Iran trở về thủ đô Bucharest khoảng 3 giờ chiều. Từ giây phút trở về, ông đã đưa ra một loạt những phán đoán sai lầm nghiêm trọng.

Sai lầm đầu tiên là vội vã quyết định tổ chức một cuộc đại mít-tinh ngay trung tâm Bucharest vào ngày hôm sau, để mọi người thấy ông vẫn là vị lãnh tụ được dân yêu mến. Ông khăng khăng tin mình được yêu chuộng, đến chết vẫn thế, chỉ cần ông nói chuyện với người dân Rumani với tư cách lãnh tụ, cho họ thấy sức mạnh và quyền lực của ông bao trùm họ, thì họ sẽ lắng nghe, vỗ tay và ngoan ngoãn vâng lời như từ trước đến nay.

Ông và cả vợ không hề có ý niệm là dân chúng ghê tởm họ đến mức nào. Thực ra thì bọn nịnh thần liếm gót vây quanh ông bà cũng có biết, nhưng chẳng ai dám hé răng. Cũng chẳng ai gợi ý cho ông rằng: một cuộc tập trung lớn theo cách thông thường không còn là việc làm khôn ngoan nhất vào thời điểm đó nữa.

Đảng bộ tại thủ đô Bucharest đã cật lực làm việc thâu đêm để có được một đám đông tràn ngập người ủng hộ chào đón ngài Tổng Chỉ huy tại Quảng trường Palace. Việc tổ chức những sự kiện như thế này cần cả một guồng máy trơn tru, để bắt đám đông tham gia chứng tỏ lòng trung thành với chế độ.

110.000 khán giả

Từ sáng sớm thứ Năm 21 tháng 12, cán bộ Đảng trong các xí nghiệp, các sở ban ngành, đã huy động công nhân viên. Họ chọn người tham gia theo từng phòng ban. Ai từ chối sẽ có nguy cơ bị đuổi việc.

Người ta chở họ bằng xe buýt xuống trung tâm Bucharest, tại đây họ được phát cờ đỏ, bảng có hình Ceausescu và các băng rôn, biểu ngữ ca ngợi chủ nghĩa xã hội. Rồi họ bắt đầu diễu hành thành một dòng người đi dần về Quảng trường Palace.

Khi tới nơi, họ được kiểm tra lần nữa để loại bỏ những phần tử bất hảo có khả năng gây rối trà trộn. Mặc dù vậy, nhiều  người đi trên những phố chính của Bucharest, như phố Calea Victorei gần đó, đã bị lùa vào đám diễu hành để nhanh chóng nâng cao tổng số người tham gia.

Những người trung thành nòng cốt thì mang bảng có hình lãnh tụ và biểu ngữ đứng hàng đầu. Dân thường thì đứng ở phía sau. Mật vụ Securitate có mặt đông đảo, nhưng được trải rộng để trà trộn vào đám đông lên tới 110.000 người.

Phút yếu đuối của Chủ tịch

Giữa trưa, nắng mùa đông rực rỡ, cuộc mít-tinh bắt đầu. Đám đông có vẻ bàng quan khi vài cán bộ Đảng ít được biết tên lên phát biểu khởi động.

Đúng 12g31, Ceausescu, với bà Elena bên cạnh, xuất hiện tại ban-công Trụ sở Đảng. Họ đứng trước một cụm bốn micro để phát biểu.

Ban đầu, mọi sự diễn ra như thường lệ. Quần chúng hoan hô Ceausescu và tiếng vỗ tay đều nhịp thỉnh thoảng vang lên như điểm xuyết cho những phát biểu nhạt nhẽo của ông.

Nhưng, tám phút sau khi ông diễn thuyết, một điều chưa từng có đã xảy ra. Từ phía cuối đám đông có những tiếng ù à, huýt sáo, rồi tiếng hô trầm trầm, cất lên chuỗi âm thanh TI-MI-SOA-RA chầm chậm, rền rền. Riếng hô ban đầu nhỏ, nhưng càng lúc càng vang to, càng dứt khoát.

Ceausescu chợt hụt hẫng, lặng đi trong chốc lát. Rồi ông gắng gượng đọc tiếp bài diễn văn soạn sẵn về “những phần tử phát-xít kích động âm mưu phá hoại chủ nghĩa xã hội”.

Nhưng, tiếng hô vang vẫn tiếp tục, giờ đây lại đệm thêm nhiều tiếng huýt sáo. Truyền hình Rumani, hôm đó được lệnh truyền hình trực tiếp cuộc mít-tinh, vẫn tiếp tục phát hình.

Nhà đại lãnh tụ bỗng im bặt, đông cứng lại, miệng mở ra, trễ xuống.

Đả đảo và lương hưu

Đó là giây phút yếu đuối chết người của nhà độc tài, và đám đông nắm bắt được điều đó. Quần chúng bắt đầu la to “Ceausescu! Dân là chủ!” và “Đả đảo kẻ giết người!”

Trong cơn bối rối, ông đưa tay phải lên. Nhưng hành vi này lại làm quần chúng sôi lên. Elena nói to với ông, không để tiếng lọt vào micro: “Nói đi! Hứa hẹn gì đó đi!”

Ceausescu nhìn luống cuống, ông lúng ta lúng túng khi loan báo sẽ tăng lương hưu và trợ cấp gia đình lên 2.000 lei (khoảng 2 đô-la Mỹ mỗi tháng). Nhưng chỉ vậy rồi thôi, ông cạn lời, không nói thêm được gì nữa.

Tiếng la ó huýt sao càng lúc càng to. Giám đốc Đài Truyền hình tự ý ra quyết định ngưng phát sóng. Màn hình TV trống trơn, chỉ còn mỗi chữ “Truyền hình trực tiếp”. Tay hộ vệ lực lưỡng của Ceausescu, Tướng Marin Neagoe, vội vã đưa lãnh tụ rời khỏi ban-công.

Nhiều người sau này cho rằng mình là người khởi xướng những tiếng hô phản đối nhà độc tài trong cuộc mít-tinh này. Vài năm đầu, ai cũng nghĩ người khởi xướng là sinh viên Nica Leon. Nhưng sau đó thì có nhiều hoài nghi về những gì Nica tự nhận. Một người đáng tin hơn, đứng ở hàng đầu đoàn mít-tinh, là tài xế taxi Adrian Donea. Anh kể: “Chúng tôi đều thấy ông ta thực sự sợ hãi. Lúc đó chúng tôi mới thấy mình có sức mạnh, mình là một lực lượng.” Còn người đầu tiên cất lên tiếng hô “Timisoara” là những công nhân đến từ nhà máy điện Turbomecanica, ở ngoại ô Bucharest.

Náo loạn đường phố

Hầu hết các cuộc cách mạng của đám đông thường hỗn độn. Đám đông tại Quảng trường Palace đã làm nhà độc tài bị chấn thương trầm trọng, dù không bắn phát đạn nào.

Nhưng rồi, đám đông lại không biết phải làm gì sau đó.

Nếu lúc đó mật vụ Securitate dùng vũ lực tấn công và buộc những người chống đối rời khỏi đường phố Bucharest thì diễn biến Cách mạng Rumani có thể đã rẽ qua một hướng hoàn toàn khác. Nhưng họ đã không đàn áp.

Ngay sau đó, hàng ngũ những người biểu tình được bổ sung hàng ngàn người từ nhà túa ra, họ vừa xem truyền hình trực tiếp, thấy Ceausescu trên TV từ một nhà độc tài toàn năng bỗng hóa thành một lão già yếu đuối. Người khác thì nghe kể lại và cũng túa ra đường xem thực hư thế nào, xem có thực Ceausescu mất mặt hay không?

Chiều hôm đó, xung đột đã diễn ra tại ba điểm chính ngay trung tâm Bucharest: Tại Quảng trường Đại học, nơi có Khách sạn InterContinental, từ nơi này, các phóng viên quốc tế không phải đi đâu xa để thấy những hỗn loạn đang diễn ra; hai điểm kia là Quảng trường Palace và Đài Truyền hình Rumani ở phía bắc thành phố.

Trong vài giờ đồng hồ, các lực lượng an ninh án binh bất động. Họ để mặc người biểu tình náo loạn.

Ông Pavel Campeanu – người cộng sản lão thành từng ở chung nhà tù với Ceausescu, nhưng đã không nhìn mặt nhà độc tài mấy chục năm qua – nhận định rằng: “Ngay lúc đó, Ceausescu vẫn còn có thể chọn giải pháp đối thoại với sinh viên, với những người bất đồng, và với những người cộng sản cải cách. Nhưng … để làm vậy, ông phải đổi hẳn cái nhìn thâm căn cố đế của mình. Đó là điều ông không làm được.”

Gạch đá chọi súng

Thay vì đối thoại, Ceausescu chọn giải pháp đàn áp và dùng chiến thuật đã áp dụng ở Timisoara vài ngày trước đó. Từ 6 giờ tối, nhân viên mật vụ Secirutate và các đơn vị công an đã xả súng bắn vào người biểu tình, khi vũ khí tự vệ duy nhất của họ là bom chai tự chế, gạch đá, và lá chắn là những chiếc xe hơi lật ngang trên đại lộ thành phố.

Một người tham gia cách mạng cho biết: “Khắp nơi, chỗ nào cũng náo loạn. Nhưng chúng tôi quyết tâm trụ lại trên đường phố để phản kháng, ít nhất là trong đêm đó, rồi xem chuyện gì sẽ xảy ra.”

Không có bộ đội chính quy nào dự phần vào cuộc đàn áp. Họ ở lại trại. Vài người được phái đến nhưng hầu hết đều là tân binh, họ cũng hoang mang, không biết phải nã súng vào ai.

Sai lầm thứ hai: Cố bám

Bên trong trụ sở Đảng Cộng sản tại Quảng trường Palace, Ceausescu phạm sai lầm lớn thứ hai.

Vốn là người rất lo lắng cho an ninh bản thân, ông đã mướn nguyên một đội cận vệ với 80 mật vụ được đào tạo kỹ thuật cao, được đãi ngộ và trả lương hậu hĩnh để trung thành tuyệt đối. Không những thế, dưới đất trụ sở Đảng là một hệ thống đường hầm bí mật nối kết với những dinh thự khác của ông tại Bucharest.

Với điều kiện như vậy, Ceausescu có thể dễ dàng thoát khỏi thành phố, đến nơi khác để tập hợp những kẻ trung thành và xoay chuyển tình thế. Nhưng, ông đã không dùng biện pháp này. Cũng không ai hiểu vì sao.

Suốt buổi chiều và đêm hôm đó, Ceausescu co cụm trong trụ sở cùng các cận vệ và quan chức thân cận. Một lần, ông nói với họ rằng: “Tôi sẽ ở lại chiến đấu… Tôi sẽ không bỏ chạy dưới áp lực, và vợ tôi cũng đồng quan điểm.”

Chẳng ai buồn thuyết phục ông làm khác đi. Thậm chí một số người đã đổi chiều với toan tính riêng để tự cứu. Những người khác thì tiếp tục im lặng vì sợ hãi, như xưa nay vẫn vậy.

Đêm không ngủ

Đêm đó, quần chúng trụ lại trên đường phố. Thỉnh thoảng cũng có những cuộc đụng độ đây đó khiến khoảng 35 người chết, nhưng mật vụ Securitate và công an chống bạo động đã biến mất trước khi mặt trời lên.

Một đám rất đông người, nhưng rất ôn hòa, đã chiếm đóng Quảng trường Palace. Alex Serban nhớ lại: “Chúng tôi nghĩ có gì đó sẽ xảy ra. Nhưng chẳng biết đó sẽ là gì.”

Đài Truyền hình Rumani lại tiếp tục truyền hình trực tiếp các cuộc biểu tình. Không ai ra lệnh cho họ ngưng ghi hình, nhưng có thể thấy là để các nhà quay phim tiếp tục giữ máy ghi hình, họ phải có lòng dũng cảm.

Sai lầm thứ ba: Đổ tội 

Lúc 9 giờ sáng, thứ Sáu 22 tháng 12, bên trong trụ sở Đảng, nhà độc tài Ceausescu đã đưa ra một quyết định khiến quân đội xoay chiều, chống lại ông, làm ông tiêu tan mọi hy vọng.

Ceausescu cho rằng phải có kẻ chịu trách nhiệm về những bạo loạn trong thành phố, nên ông chĩa mũi dùi vào Bộ trưởng Quốc phòng, Tướng Vasile Milea. Ông nói Milea mắc tội ‘phản quốc’ vì đã không ra lệnh cho binh lính bắn vào người biểu tình, và quyết định sa thải Milea.

Những gì xảy ra cho Milea ngay sau đó đến nay vẫn chưa có gì chắc chắn. Theo ý kiến của gia đình Milea, của bạn bè và một số thuộc cấp thì ngay sau 10 giờ sáng, theo lệnh của Ceausescu, một nhóm mật vụ đã áp giải Milea lên tầng trên, vào phòng làm việc của ông, và sau đó bắn ông chết.

Một diễn giải khác, được các nhóm sĩ quan khác đưa ra, cho rằng Milea được đưa vào phòng làm việc của mình, và ông đã tự sát ở đó.

Thông báo chính thức phát đi lúc 11 giờ thì nói: “Tướng Milea, tên phản quốc, đã tự sát”.

Dù cách nào đi nữa thì tin này đã có một ảnh hưởng vô cùng sâu sắc. Ngay khi tin được loan ra, một loạt những tiếng la ó phản đối đã vang lên dữ dội quanh Quảng trường Palace.

Ai cũng rõ, tướng bụng phệ 62 tuổi Milea suốt bao nhiêu năm qua là một trong những kẻ nham hiểm nhất trong hàng ngũ những tên nịnh hót bao quanh Ceausescu. Ông được một số sĩ quan cao cấp nể trọng, nhưng các sĩ quan cấp dưới thì chẳng xem ông ra gì. Tức khắc, ông được biến trở thành vị tử đạo của cuộc cách mạng đang diễn ra.

Quân đội về với nhân dân

Tư lệnh của cả ba binh chủng quân đội đều đồng loạt từ bỏ Ceausescu và xem ông như kẻ không còn mảy may chính nghĩa. Binh sĩ của họ cũng lập tức đứng về hàng ngũ những người đang nổi dậy.

Binh lính tháo băng đạn ra khỏi nòng súng và huơ lên cao cho dân thấy. Một số xe tăng sáng hôm đó được lệnh án ngữ các đại lộ trung tâm thành phố, giờ đây nắp xe tăng mở tung và lính binh chủng tăng cũng đứng lên vẫy chào quần chúng xung quanh. Một tiếng hô nữa lại vang dội trên Quảng trường Palace và lan ra toàn thành phố: “Quân đội – đã về với nhân dân.”

Khoảng 11 giờ 30 sáng, một chiếc trực thăng trắng đã đáp xuống sân thượng Trụ sở Đảng, trong tiếng la ó của quần chúng bên dưới.

Ceausescu cố gắng nói chuyện với dân chúng lần nữa nhưng ông đã hoàn toàn thất bại. Ông bước ra ban-công tầng một, nơi ông đã đọc diễn văn hôm trước. Nhưng lần này thì quần chúng lấy gạch đá và những gì có thể nhặt được ném ông.

Cận vệ kéo ông và bà vợ Elena rời khỏi ban-công đi về phía thang máy.

Người Dân vào nhà, Chủ tịch lên mái để thăng 

Một nhóm người biểu tình lúc đó đã phá được cổng thép lớn dẫn vào tòa nhà. Với số đông, họ áp đảo và đoạt súng của lính gác. Họ chạy ùa lên thang, nơi cận vệ Ceausescu chống cự. Nhưng sau khi chống cự quyết liệt được vài phút, những cận vệ này cũng đầu hàng.

Đám đông tiếp tục tràn vào, băng qua phòng làm việc của Ceausescu và xuất hiện trên ban-công, nơi họ được hàng ngàn người đứng dưới quảng trường hoan hô, cổ vũ.

Không ai trong số người nổi dậy này biết rằng lúc đó, họ chỉ đứng cách nhà độc tài bị họ ghê tởm có vài mét mà thôi. Lúc này, ông đang bị kẹt trong thang máy và thoát được chỉ nhờ may mắn.

Biệt đội mật vụ bảo vệ ông đã quyết định không đi xuống tầng hầm, nơi những người còn sót lại cùng ông có thể dùng hệ thống đường ngầm bí mật để thoát hiểm. Họ quyết định đi lên sân thượng. Nhưng rủi thay, điện bị mất khi các cuộc đụng độ xảy ra, thang máy kẹt cứng trước khi đến được tầng cao nhất.

Sau vài phút loay hoay vất vả, các cận vệ cậy bung được cánh cửa thang máy và đưa lãnh tụ và vợ, lúc này đang thở gấp, đứt đoạn và hốt hoảng, leo lên sân thượng.

Họ được hai người tin cậy nhất tháp tùng: Thủ tướng Emil Bobu, và Phó Thủ tướng Manea Manescu, một trong những anh em rể của Ceausescu.

Trực thăng nóc nhà

Cánh quạt trực thăng Ecureuil, do Pháp chế tạo, lúc đó đang quay phần phật. Họ phải quyết định nhanh.

Phi công trực thăng, Thiếu tá Vasile Malutan, 46 tuổi, cũng có chiếc bụng phệ, tiếp đón họ. Ông là phi công riêng của Ceausescu trong tám năm qua, nhưng lần này ông lại không hề muốn tham gia vào chuyến di tản bất đắc dĩ.

Ông kể: “Tôi được lệnh bay đến sân thượng tòa nhà và ở đó chờ. Ban đầu, thực ra là có bốn chiếc trực thăng, ba chiếc để chở thành viên chính phủ. Nhưng nhiệm vụ của ba trực thăng kia đã bị hủy bỏ. Bản thân tôi cũng nghĩ tới việc bay khỏi nơi này… mà không đón bất cứ ai. Nhưng tôi thấy một số tay mật vụ chuyên bắn tỉa trên các mái nhà gần đó. Tôi sợ nếu họ thấy tôi bay đi mà không đón ai thì họ sẽ bắn hạ tôi ngay. Tôi gọi điện về căn cứ hỏi: ‘Tôi có cần ở lại không?’ Họ trả lời: ‘Có, cứ ở lại chờ!’” Lúc đó Malutan biết rõ những gì đang xảy ra dưới kia, vì căn cứ liên tục kể cho ông nghe những gì dân Rumani đang thấy trên TV.

Khi phát hiện số người chuẩn bị lên máy bay quá đông, Malutan thốt lên: “Đông quá, không chở hết!” Nhưng ngay lúc đó, một số người biểu tình đã leo lên được mái nhà và có thể ào lên trực thăng trong giây lát. Thế là đám người tháo chạy mặc kệ lo ngại của phi công, trèo lên trực thăng.

Khi cất cánh, chiếc trực thăng đã phải ì ạch, may mắn lắm mới rời khỏi nóc nhà. Phi công kể: “Nếu đậu trên mặt đất, tôi không nghĩ mình có thể bay lên.”

Lúc đó là 12 giờ trưa. Trong trực thăng có tổng cộng chín người, gồm cả ba người tổ bay. Quá chật đến nỗi một người trong tổ bay phải ngồi trên đùi một cận vệ.

Bà Elena khóc như mưa. Ceausescu hoàn toàn suy sụp.

Sau vài phút bay, phi công Malutan quay hỏi Ceausescu: “Đi đâu?” Vị lãnh tụ bối rối. Ông và Elena tranh cãi một lát rồi cuối cùng Ceausescu nói: “Đi Snagov”, một điểm cách Bucharest 60 km về phía tây bắc, nơi ông có một dinh thự ven hồ. [11]

Ồ-lê, Ô-lế, Ô-lề

Niềm vui vỡ oà tại Quảng trường Palace khi quần chúng nhìn thấy chiếc trực thăng của Chủ tịch hối hả rời thành phố.

Khắp nơi, đâu cũng thấy lá cờ Rumani ba màu đỏ, xanh dương, vàng với một lỗ tròn chính giữa – huy hiệu búa liềm giữa cờ đã bị đục bỏ còn lại một lỗ tròn vo.

Quần chúng cất tiếng hát, hầu hết hát theo giai điệu bài hát bóng đá nổi tiếng được cất lên trong bất cứ trận bóng nào. Họ hát rằng:

Ole, Ole, Ole, Ole
Ceausescu unde é?
Ole, Ole, Ole, Ole
Ceausescu nu mai é!

(Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề
Ceausescu đâu rồi?
Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề
Ceausescu hết thời!)

Hàng trăm người tràn ngập trụ sở Đảng. Khi ùa vào tòa nhà, họ tin rằng họ là những người khởi nghĩa và chính họ đã lật đổ nhà độc tài. Nhưng đó là một đoàn người hỗn độn, ngẫu nhiên hình thành vì có mặt vào đúng nơi, đúng lúc. Trong số, có công nhân xí nghiệp, tài xế taxi, thư ký văn phòng, giáo viên… Một trong những người đầu tiên lọt vào sảnh trung tâm tòa nhà là một cô phục vụ quày rượu tại khách sạn du lịch InterContinental gần đó.

Trong văn phòng khổng lồ, nơi Ceausescu từng làm việc, họ thảo luận hàng giờ đồng hồ nhưng hoàn toàn không có tổ chức. Không ai trong họ có kinh nghiệm làm việc trong guồng máy chính quyền, hoặc thuộc phe đối lập. Ai cũng có ý kiến, nhưng không ai có quyền lực. Giữa tình thế hỗn độn này, quyền lực lại nằm ở chỗ khác.

Truyền hình giữ một vai trò then chốt trong Cách mạng Rumani, nhưng không phải các đài phát thanh hay truyền hình quốc tế đã tạo nên bước chuyển. Vào ngày hỗn loạn đầu tiên, sau khi Ceausescu bỏ chạy, các studio ghi hình của Đài Truyền hình Rumani đã bỗng nhiên trở thành trụ sở của chính quyền cách mạng.

Gelu Voican-Voiculescu, một trong những lãnh đạo đầu tiên thời kỳ hậu-Ceausescu, cho biết: “Thành công của chúng tôi là thành công trong việc sử dụng sức mạnh truyền hình.”

Lên Đài

Từ sáng ngày 22 tháng 12, bất cứ ai ở Bucharest có chút ảnh hưởng, hoặc nghĩ mình có chút ảnh hưởng, đều ghé đến trụ sở của Đài Truyền hình Rumani, một tòa nhà bằng bê-tông xấu xí nằm trên một đại lộ trung tâm thành phố.

Ion Iliescu, được biết tới trong hàng ngũ Đảng Cộng sản như một đối thủ cẩn trọng của Ceausescu, kể lại rằng khoảng giữa sáng hôm đó, anh mật vụ Securitate vẫn lẽo đẽo theo dõi ông trong bao nhiêu năm nay tự nhiên biến mất. Thế là ông đi thẳng đến Đài Truyền hình.

Tướng Victor Stanculescu, mới được phong chức Bộ trưởng Quốc phòng sáng hôm đó, thay cho Tướng Milea đã chết, cũng là người khuyên Ceausescu thoát thân bằng trực thăng, cũng đến Đài Truyền hình, cùng một số sĩ quan cao cấp khác.

Nhà thơ phản kháng Mircea Dinescu cũng thế. Ông bị quản thúc tại gia ở Bucharest suốt sáu tháng trước vì dám trả lời phỏng vấn của tờ báo Pháp Libération. Ông cũng đi thẳng đến Đài Truyền hình. Đến Đài Truyền hình vô tình đã trở thành một việc làm tiêu biểu của Cách mạng Rumani.

Ông kể lại: “Sáng thứ Sáu 22 tháng 12, một người hàng xóm gọi điện báo cho tôi rằng mấy anh mật vụ Securitate có vũ trang đứng gác trước cửa nhà tôi đã đi rồi, không còn nữa. Thế là tôi đi ra ngoài, đảo một vòng xem sao. Đúng vậy, họ đi rồi! Thế là tôi lang thang vào thành phố. Rồi một đám đông người biểu tình ùa đến với tôi, họ nhấc bổng tôi lên. Họ đặt tôi đứng trên một chiếc xe bọc sắt và loan báo với binh lính chung quanh rằng ‘Đây là Dinescu! Hãy đưa ông ấy đến Đài Truyền hình!’ Mọi sự diễn ra như trong một cuốn phim dở về cách mạng.”

Diễn viên Nhà hát Quốc gia, Ion Caramitru, một trong những nghệ sĩ được ưa chuộng nhất trong nước, cũng được chở đến Đài Truyền hình trên nóc một chiếc xe tăng.

‘Có biết gì đâu’

Một giờ đồng hồ sau khi Ceausescu tẩu thoát, giữa những hỗn độn, không biết phải làm gì, ban điều hành Đài Truyền hình đã cho ngưng phát sóng. Nhưng khoảng 1 giờ chiều, truyền hình trực tiếp lại được tiếp tục và những người đầu tiên xuất hiện trên TV là nhà thơ và diễn viên kể trên. Họ mỉm cười thật rạng rỡ và vui vẻ. Nhà thơ Dinescu công bố: “Nhà độc tài đã bỏ chạy.” Đến cuối ngày thì nhà thơ này sẽ trở thành một bộ trưởng trong chính phủ mới.

Với hàng triệu người Rumani sống bên ngoài thủ đô Bucharest thì đó là bản tin đầu tiên họ được nghe về cuộc cách mạng ở Bucharest. Một trong số là Silviu Brucan, một trí thức phản kháng, kẻ đối đầu với Ceausescu [lúc đó bị giam lỏng ở ngoại ô Bucharest] nghe xong bản tin, ông cũng đến Đài Truyền hình.

Diễn viên Caramitru tâm sự: “Cảm giác giải thoát và phấn khích sau ngần ấy năm ngộp thở quả thực là hết sức say mê! Nhưng chúng tôi có biết gì đâu! Làm sao chúng tôi thành lập được chính phủ bây giờ? Tôi chỉ là diễn viên mà thôi. Tôi hoàn toàn không có một khái niệm mình sẽ là Tổng thống hay gì khác.”

Nhưng trong số vẫn có những người nắm được bản chất của quyền lực. Ion Iliescu và những người theo phe ông thấy ngay cơ hội kiểm soát cuộc cách mạng, và họ đã lập tức nắm lấy.

Mới như cũ

Khi Ion Iliescu đến Đài Truyền hình thì mọi sự đang hỗn loạn. Ông kể lại: “Ai cũng muốn nói, cũng cho thấy thiện chí. Nhưng tôi cảm thấy rằng phải tái lập trật tự, vì thiện chí và cảm xúc thuần túy có thể dẫn đến tình trạng vô chính phủ.”

Ông và một vài quan chức cộng sản bị Ceausescu đối xử tệ không thăng chức trước đó, cùng một số đông các tướng lĩnh và một vài trí thức phản kháng đã thành lập chính quyền từ những mảnh đổ nát còn sót lại của nền độc tài Ceausescu.

Cũng vì vậy, một giả thuyết được lan truyền rộng rãi rằng: có một âm mưu tiếm quyền được tính toán kỹ lưỡng. Giả thuyết này được người dân Rumani và các nơi khác tin là thật.

Sự xuất hiện của quá nhiều người cộng sản cũ, chưa hề thay da đổi thịt, trong chính quyền mới, và sự khó khăn của quá trình dân chủ hóa sau đó càng làm cho giả thuyết vừa kể trên nghe đáng tin hơn.

Thực ra, không có chứng cớ hay tài liệu gì khẳng định giả thuyết kia là đúng. Giả thuyết cũng tự mâu thuẫn, một mặt công nhận tình hình hỗn loạn không thể dự đoán khi quần chúng nổi dậy và nhà độc tài bỏ chạy, một mặt lại nói tới âm mưu được tính toán cẩn thận hàng tháng trước. Rõ ràng mặt này phủ nhận mặt kia, khiến kết luận về một âm mưu lật đổ có từ trước trở nên khó tin.

Không thể và có thể

Nhưng vẫn có nhân vật, như Tướng Nicolae Militaru, người trở thành Bộ trưởng Quốc phòng trong chính quyền mới, khẳng định là đã có một kế hoạch từ trước.

Ông nói kế hoạch lật đổ Ceausescu dự tính sẽ diễn ra vào tháng 2 năm 1990. Ceausescu sẽ bị bắt giam khi đang ở ngoài Bucharest và sẽ bị vô hiệu hóa bằng súng bắn thuốc mê, lúc đó quân đội và lực lượng cách mạng nòng cốt sẽ tuyên bố đảo chính. Tuy nhiên, súng bắn thuốc mê sẽ chỉ được chuyển đến vào giữa tháng 1, 1990, vì thế, cuộc cách mạng vừa rồi đã đi trước cuộc đảo chính dự định. Chính phủ mới dự định sẽ được đặt tên là Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc và Ion Iliescu sẽ là người đứng đầu.

Tuy nhiên, Ion Iliescu và các thành viên hàng đầu của chính quyền hậu-Ceausescu đã bác bỏ ý kiến về âm mưu kể trên. Iliescu nói: “Nhiều người đã bàn về việc cần làm trong tương lai, về cách để thoát khỏi thảm trạng hiện nay. Tôi cũng có nói chuyện với giới quân sự. Nhưng liệu họ có dám hành động để loại bỏ chế độ Ceausescu không? Có kế hoạch, cũng phải có điều kiện thuận tiện cho kế hoạch thành công. Chúng tôi bàn bạc xem có thể làm gì, nhưng… mọi sự đã rõ – từ những người ở trong quân đội hay các tập thể khác – rằng không thể làm được bất cứ điều gì!”

Khi Iliescu nói chuyện trên TV chiều thứ Sáu 22 tháng 12, ông tỏ ra là một nhân vật có uy quyền, ông hứa sẽ đưa kẻ bấy lâu đầy đọa người dân Rumani ra ‘xét xử trước công chúng.’ Ông cũng nói nhiệm vụ trước mắt là tái lập trật tự, vì vào lúc đó, chưa ai biết chắc liệu Ceausescu có phản pháo hay không. Rồi ông kêu gọi ‘mọi người dân có trách nhiệm’ đứng ra thành lập các Ủy ban Cứu nguy Tổ quốc.

Đến 6 giờ tối cùng ngày, quân đội xem như đã hoàn thành việc đưa Iliescu lên làm người đứng đầu chính quyền mới, một chính quyền còn chao đảo, yếu ớt, ra đời trong bất định và hỗn độn, nhưng có một nhiệm vụ cấp bách bậc nhấc: Dập tắt nguy cơ một cuộc nội chiến.

Mật vụ trở thành khủng bố di động

Súng đã nổ lúc 7 giờ tối. Các nhóm nhỏ sĩ quan mật vụ Securitate trung thành với Ceausescu bắt đầu nổ súng bừa bãi vào đám đông trên đường phố đang ăn mừng cách mạng. Các cuộc nổ súng đã diễn ra nghiêm trọng trong một ngày hai đêm, rồi thưa thớt hơn một ngày sau đó.

Thật khó xác định ai bắn vào ai và vì sao. Hầu hết các vụ bạo động diễn ra gần như vô cớ và tùy tiện. Chẳng hạn như vụ bắn phá Thư viện Quốc gia, với kiến trúc tân-cổ-điển rất đẹp, trong lúc Thư viện không có một ai. Rút cuộc, chỉ có hàng trăm pho sách quý hiếm bị tiêu hủy.

Mật vụ Securitate hoạt động chiếu theo công lệnh có mã số 2600, vốn quy định cách chiến đấu trong tình huống có ngoại xâm hoặc có nổi dậy nghiêm trọng. Không rõ ai đã kích hoạt lệnh này, vì những người cao cấp nhất của Securitate, gồm cả Tướng Vlad, đều đã bỏ qua hàng ngũ cách mạng. Chiến thuật được dùng không nhắm mục tiêu quân sự, mà được thiết kế để khủng bố, làm dân chúng sợ bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

Trước tình thế này, quân đội cũng không biết đáp trả ra sao. Phần lớn binh lính vừa nhập ngũ, chưa được huấn luyện kỹ, cũng chưa từng bắn phát súng sát thương nào. Phân biệt đâu là bạn đâu là thù thật khó, nhất là khi có hàng ngàn thường dân được binh lính giao vũ khí lấy từ các trại lính.

Những mật vụ “khủng bố” lại hay mặc thường phục hoặc ngụy trang thành lính. Họ chia thành từng toán nhỏ, đi trong các đường ngầm và cống rãnh để di chuyển quanh Bucharest, sau đó chui lên, tấn công các đơn vị quân đội hay mục tiêu dân sự rồi đột ngột lặn mất.

Tấn công Đài Truyền hình

9 giờ tối, thứ Sáu 22 tháng 12, Mật vụ tấn công Đài Truyền hình, nhưng dường như không để chiếm đóng. Lúc này, Đài Truyền hình đã được nhiều xe tăng bao quanh để bảo vệ. Lực lượng bảo vệ cũng là tân binh, chỉ được huấn luyện trong vòng chưa đầy hai tháng và lại mặc áo giáp hạng nặng, phù hợp với chiến trường lớn hơn là để chống du kích chiến trên đường phố. Cuộc đọ súng nổ ra trong khoảng một tiếng. Có 62 người chết, phần lớn là thường dân mắc kẹt giữa hai làn đạn. Đài Truyền hình còn bị tấn công vài lần nữa trong mấy ngày kế tiếp. Tuy vậy, tin đồn lại lan ra rằng hàng ngàn người đã chết và Bucharest đã tắm máu, giao tranh diễn ra dữ dội.

Trên toàn cõi Rumani, số người chết chính xác là 1.104 người, trong số có 493 chết tại Bucharest và một phần ba là những tay mật vụ “khủng bố”. Có 3.352 người bị thương, 2.000 trong số là ở Bucharest. Sự kiện riêng rẽ tệ hại nhất là một vụ quân mình bắn quân ta. Sáng sớm ngày thứ Bảy 23 tháng 12, binh lính canh gác phi trường Otopeni của Bucharest đã vô tình nổ súng vào xe chở lực lượng tiếp viện đến bổ sung quân số cho họ.

Theo lời kể của Valentin Gabrielescu, chủ tịch cuộc điều tra của Thượng viện về các vụ giao tranh trong thời gian cách mạng, thì phần lớn người chết là “thường dân vô tội, bị kẹt giữa làn đạn của một bên là lính mới đang hoảng loạn, và một bên là thường dân nã súng vào bọn khủng bố. Cùng với quân đội và công an, hàng ngàn thường dân cũng được vũ trang, họ lại bị áp lực vì tin đồn thất thiệt và những mối nguy tưởng tượng… người này cứ thế bắn vào người kia. Thật hỗn loạn.”

Cuộc tẩu thoát bi hài

Cuộc tẩu thoát của Ceausescu phải nói là vừa bi vừa hài. Xế chiều hôm đó thì cặp vợ chồng sẽ bị bỏ rơi, không nơi nương tựa và bị bắt. Nhưng trước hết, hãy trở lại với cuộc tháo chạy bằng trực thăng vào ngày thứ Sáu 22 tháng 12.

Sau khi thoát nạn trong gang tấc khi bay khỏi nóc nhà trụ sở Đảng, họ tiếp tục bay trong 20 phút đến Snagov, nơi hai ông bà có căn dinh thự 42 phòng, nhưng cũng không ở đây lâu. Ceausescu gọi một loạt cuộc điện thoại nói chuyện với các bí thư tỉnh ủy xem còn nơi nào sẵn sàng cho ông đến lánh nạn không. Hai ông bà không tính đến chuyện trốn ra nước ngoài. Ceausescu cau mày khi được báo cáo cách mạng đã lan ra khắp nơi.

Họ lên căn phòng trên tầng một, lục tung tủ rả, đổ mọi thứ từ ngăn kéo ra, lật ngược nệm giường, rồi dồn mọi thứ vào những túi màu xanh, kể cả hai ổ bánh mì. Sau 15 phút, khoảng 1 giờ 20 chiều, họ vội vã chạy trở lại trực thăng đang chờ. Họ cho hai hành khách bất đắc dĩ là Thủ tướng Bobu và Phó Thủ tướng Manescu rời đoàn để đi bằng xe, tự lo cho bản thân. Trước khi đi, Manescu [em vợ Ceausescu] đã quỳ xuống, hôn tay Chủ tịch.

Bi hài trên không

Giờ thì vợ chồng Ceausescu chỉ còn có hai người cận vệ đi theo, Trung úy Florian Rat và Marian Rusu. Viên phi công thì nãy giờ nóng lòng muốn bỏ mặc Chủ tịch và bầu đoàn của ông, nhưng hai cận vệ cứ chĩa súng vào anh, bảo anh phải làm những gì Chủ tịch yêu cầu.

Phi công Malutan kể: “Khi đã vào chỗ trên trực thăng, Ceausescu hỏi tôi ‘Anh ở phe nào? Ta đi đâu đây?’ Tôi đáp: ‘Ông bảo đi đâu thì đi đó!’ Chúng tôi cất cánh lúc 1 giờ 30 chiều. Hai cận vệ rất căng thẳng. Họ cứ chĩa súng ngắn tự động vào tôi. Trong khi đó thì qua tai nghe, tôi nghe tiếng chỉ huy của mình nói rằng ‘Vasile, nhớ nghe radio. Cách mạng đang diễn ra!’ Ngay sau đó, Ceausescu ra lệnh cho tôi cắt đứt liên lạc radio với căn cứ. Tôi rất muốn thuyết phục ông ta cho tôi hạ cánh… nhưng tôi có một mình, lại bị cắt đứt liên lạc với chung quanh.”

Phi công được lệnh bay đi Pitesti ở tây nam Rumani. Anh cố tình bay lên cao “để ra-đa phát hiện ra chúng tôi”. Nhưng một trong hai cận vệ đoán được ý đồ của anh nên hỏi: “Vasile! Anh làm quái gì thế?” Phi công quay qua nói với Ceausescu: “Chúng ta bị ra-đa phát hiện rồi!” Vợ chồng Ceausescu rất hốt hoảng. Ceausescu la to: “Bay xuống! Hạ cánh gần đường lộ!”

Phi công cho trực thăng hạ cánh trên một cánh đồng cách Titu 4 km, ngay bên ngoài làng Salcuta. Lúc đó là 1 giờ 45 chiều.

Bi hài trên cạn - Cận vệ phản chủ

Cận vệ Marian Rusu ngoắc hai chiếc xe hơi đi ngang. Vợ chồng Ceausescu và cận vệ Florian Rat lên một xe. Còn Rusu, cận vệ riêng của Elena trong nhiều năm, lên chiếc xe còn lại. Rushu hứa sẽ bám theo họ ngay phía sau. Nhưng, Rusu đã bỏ rơi họ ngay sau đó.

Chiếc xe vợ chồng Ceausescu ngồi là chiếc Dacia màu đỏ do Bác sĩ Nicolae Deca lái. Ông bác sĩ lập tức nhận ra ai đang ngồi trong xe mình, và ông tìm cách tránh xa các vị khách bất đắc dĩ này càng sớm càng tốt. Ông nói xe hết xăng. Dĩ nhiên là nói dối, nhưng lại nghe rất có lý trong tình hình khan hiếm ở Rumani lúc bấy giờ.

Cận vệ Rat lại bắt một tài xế khác chở, đó là Nicolae Petrisor, 25 tuổi, khi anh đang ở trước cửa nhà mình. Ceausescu bảo anh lái xe đến Targoviste, nơi có một nhà máy kiểu mẫu – xây chỉ đề làm màu, lấy tiếng – mà ông đã từng ghé thăm vài lần cùng quan khách nước ngoài. Người ở đó là những công nhân được đặc biệt ưu đãi, là những người cộng sản trung thành, chắc chắn họ sẽ đón tiếp ông bà, Ceausescu nói với Elena như thế, nhưng bà vẫn tỏ vẻ nghi ngại.

Khi họ đến Targoviste, thì oái oăm thay, thị trấn này cũng đang tưng bừng ăn mừng tin cách mạng nổ ra.

Họ bỏ cận vệ Rat bên ngoài thị trấn. Sợ bị nhận diện, hai vợ chồng cứ phải cúi đầu, giấu mặt. Petriso được lệnh lái xe đến một đồn điền mà hai ông bà đã thăm viếng nhiều lần. Giám đốc đồn điền, Victor Seinescu, cho họ vào.

Nhưng đến khoảng 2 giờ 45 chiều, Seinescu lại gọi dân quân địa phương và báo cho họ biết lai lịch của hai vị khách. Vợ chồng Ceausescu được hai dân quân mặc đồng phục dẫn đi. Nhưng phải đến ba giờ sau đó, họ mới được giao nộp cho quân đội, dù trại lính chỉ cách đó 450 mét.

Cũng như rất nhiều những sĩ quan cao cấp chiều hôm đó, Seinescu phải quyết định mình theo phe nào. Cuối cùng thì ông quyết định giao vợ chồng Ceausescu cho quân đội. Khoảng gần 6 giờ tối, họ được đưa tới trại lính tại Targoviste, nơi đóng quân của một đơn vị pháo phòng không.

Chỗ ở cuối cùng của vợ chồng nhà độc tài..

Thật khó đưa hai người đến trại lính mà không bị ai phát hiện. Vì vậy, vợ chồng Ceausescu được đưa lên một xe bọc sắt để tránh ánh mắt của công chúng, và xe phải đi đường vòng tới trại lính. Chuyến đi mất khoảng năm phút.

Đến nơi, ông bà được đưa đến nơi trú ngụ cuối cùng. Một văn phòng được biến thành hai khu riêng, cách nhau một dãy bàn. Hai chiếc giường lính đặt trong góc phòng, có chăn nhưng không có khăn trải. Một lò sưởi lớn bằng gốm nằm ở góc phòng còn lại, cạnh đó là bồn rửa có vòi nước lạnh.

Khu vực tầng trệt này của trại lính được cách ly với mọi người, chỉ trừ một vài sĩ quan và hạ sĩ quan được chọn lọc đặc biệt. Thiếu tá Ion Secu là người có mặt với hai vợ chồng trong hai ngày rưỡi cuối cùng sắp tới của họ.

Thoạt đầu, Secu cho biết: “Ceausescu cư xử như ông vẫn đang là Tổng Tư lệnh tối cao. Câu đầu tiên ông nói là ‘Tình hình thế nào rồi? Báo cáo tôi nghe!’ Tôi đáp rằng ‘Chúng tôi ở đây là để bảo vệ ông khỏi quần chúng. Nhưng chúng tôi phải tuân lệnh những người cầm quyền tại Bucharest!’ Câu đó làm ông nổi nóng, châm ngòi cho một chuỗi những lời nguyền rủa bọn phản bội đã chủ mưu chống lại ông. Phải một lúc sau ông mới hiểu ra thực trạng là mình đang bị giam giữ.” Tâm trạng của ông biến động, lúc thì im lặng, tuyệt vọng, lúc thì kích động la lối, nguyền rủa bọn ‘phản bội’.

Người chỉ huy, Trung tá Mares, lo lắng cho an ninh của ông trên hết. Lúc đó trong căn cứ có 500 binh sĩ và 40 nhân viên dân sự. Ai biết được sự có mặt của Ceausescu đều bị hạn chế rời khỏi căn cứ.

Một triệu đô la và nạt nộ 

Thỉnh thoảng, Ceausescu cũng dở trò dụ dỗ người khác. Một trong những người canh giữ ông 24/24 kể lại rằng: “Ông đến gần tôi… chìa tay ra cho tôi, nói rằng ‘Tôi sẽ cho cậu một triệu đô Mỹ, và bất cứ cấp bậc nào trong quân đội mà cậu thích, nếu cậu giúp đưa chúng tôi ra khỏi đây!’ Nhưng tôi không tin ông ấy nói thật lòng. Tôi nghĩ thầm, chưa chắc đã được triệu đô, mà có khi lại ăn ngay một viên đạn vào gáy sau khi xong việc không chừng. Nên tôi nói với ông ‘Không được đâu!’”

Với Elena thì đó là ba ngày bà càm ràm không ngừng. Người canh gác bà kể lại: “Bà chê hết cái này đến cái khác! Bà ấy sợ, nhưng lúc nào cũng giận dữ, cơn giận của bà cũng thật đáng sợ. Ông Ceausescu bị tiểu đường nên phải đi vệ sinh nhiều lần, mà nhà vệ sinh cuối hành lang thì lại bốc mùi hôi thối. Bà dứt khoát không chịu dùng nhà vệ sinh kia! Thế là chúng tôi phải đưa cho bà một cái bô để đi trong phòng. Lúc nào tôi nói điều gì với ông thì bà đều nạt nộ rằng ‘Anh dám ăn nói với vị Tổng Tư lệnh như thế à?!’”

Đêm đầu tiên hôm đó, theo lời Secu kể lại, họ ngủ chung một chiếc giường đơn, họ co cụm lại, hai người già giang tay ôm lấy nhau. Secu cho biết: “Họ nói thì thầm, nhưng dù đang ôm nhau họ vẫn cứ càm ràm cãi qua cãi lại. Có lúc Ceausescu nói ‘Nếu bà nói tôi biết sớm mấy chuyện bà biết, thì tôi đã xử thằng Iliescu đó rồi! Tôi đã cho nó đi đời mùa hè vừa rồi. Nhưng bà đâu có cho tôi biết!’ Bà thì cũng có lúc cự lại ông rằng: ‘Tất cả là lỗi tại ông. Đáng lẽ mình không nên đến đây ngay từ đầu. Tại ông hết!’”

Những ngày cuối cùng...

Họ không chịu ăn bất cứ thứ gì, ngoại trừ bánh mì và táo, và chỉ uống nước trà không đường. Thức ăn được đưa đến cho họ từ nhà ăn của các sĩ quan, nhưng họ không đụng đến, dường như sợ thức ăn có thuốc độc.

Buổi sáng đầu tiên hôm sau, các sĩ quan cho họ mặc quần áo lính, để nếu trại lính có bị mật vụ Securitate trung thành với ông bà tấn công thì chúng cũng khó tìm ra hai ông bà. Họ yêu cầu Ceausescu cởi áo choàng sẫm màu và mũ lông để mặc quần áo lính. Elena không chịu thay quần áo. Lính gác phải dùng sức mạnh để lột chiếc áo choàng cổ lông thú trên người bà, rồi choàng cho bà chiếc áo khoác quân đội mùa đông và chụp lên đầu bà chiếc mũ lính.

Dụ dỗ cuối cùng, súng nổ đêm Giáng sinh

Đêm đó, Ceausescu một lần nữa tìm cách dụ dỗ người khác để thoát thân.

Theo lời kể của Thiếu tá Secu: “Ông thấy tôi lơ mơ ngủ gật. Bà Elena thì ở trên giường nhưng mắt dõi theo mọi thứ, bà hoàn toàn tỉnh táo và chăm chú. Ông nói với tôi ‘Anh mệt phải không? Mệt là đúng rồi!’ Rồi ông hỏi thăm gia đình tôi. Tôi bảo tôi có vợ và một con, hiện sống trong một căn hộ nhỏ. Ông nói ‘Khó đấy! Anh xứng đáng được hưởng nhiều hơn thế. Tôi bảo này! Tôi có thể cho anh một căn biệt thự ở Kieseleff [một quận nhà giàu, thời thượng ở Bucharest]. Biệt thự có bảy hoặc tám phòng, nhiều hơn nếu anh muốn. Và một nhà để xe, chiếc xe trong đó cũng không nhất thiết phải là chiếc Dacia xoàng xĩnh!’ … Tôi không nói gì và ông lại tiếp tục thuyết phục ‘Anh không nên hy sinh cả đời mà chẳng được cái gì! Nếu anh đưa tôi ra khỏi đây và đến Đài Truyền hình để tôi nói chuyện với nhân dân thì tôi thấy là tôi có thể cho anh một triệu, không, hai triệu đô-la!’”

Vào Đêm Vọng Giáng sinh, 24 tháng 12, lực lượng mật vụ Securitate cuối cùng cũng tìm ra chỗ giam giữ vợ chồng Ceausescu và dàn quân ngay trước trại lính. Vừa quá nửa đêm, họ nổ súng, nhưng cuối cùng đã bị lực lượng quân đội đẩy lui.

Trước đó một giờ, vợ chồng Ceausescu đã phải mặc áo choàng kín, đưa vội vã vào xe bọc sắt đặt trong một khu vực có che chắn, và được yêu cầu nằm úp mặt xuống sàn xe. Họ đã ở đó suốt năm giờ, đến khi giao tranh kết thúc. Một lần nữa họ được đưa trở lại căn phòng của mình trong trại. Và đó là nơi ở cuối cùng, trong đêm cuối cùng đời họ.

Làm thế nào để giết Ceausescu?

Chính quyền mới cần phải khẳng định quyền hành của mình. Vào chiều 24 tháng 12, các cuộc giao tranh tại Bucharest và các thành phố lớn như Siiu và Brasov đã bớt nghiêm trọng, nhưng các vụ nổ súng lẻ tẻ vẫn diễn ra và số thương vong vẫn tăng. Những người chủ trương ôn hòa trong hàng ngũ cách mạng rất không thích cái tên Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc, vì nghe rất ‘Stalin-nít’. Nhưng Iliescu và những người Cộng sản thâm niên có mặt trong chính quyền mới thì lại nghĩ nó gợi lên tinh thần ái quốc.

Khoảng 5 giờ chiều, họ họp nhau lại để quyết định số phận của Ceausescu.

Đó là một cuộc họp nặng nề, nóng nảy và cay cú. Họ chần chừ đã hai ngày qua. Giờ đây, phe quân đội muốn xử tử Ceausescu ngay lập tức, vì như thế sẽ lập tức chấm dứt mọi giao tranh, Ceausescu chết thì sẽ không còn điểm chung nào nữa, không ai còn lý do nào để chiến đấu nữa.

Iliescu lúc đầu lưỡng lự, ông không muốn tay mình vấy máu. Nhưng khi Bộ trưởng Quốc phòng mới Militaru mỉa mai nặng lời rằng: “Vâng! Đúng rồi! Đó sẽ là một khởi đầu tệ hại cho triều đại của ông chứ gì?!”, thì Iliescu giận dữ đáp lại: “Ý anh là gì, triều đại của tôi à? Làm gì có triều đại nào ở đây!”

Một vài người cho rằng việc vội vã dựng lên phiên tòa dã chiến, không có chứng cớ hẳn hoi, sẽ khiến quốc tế chỉ trích. Nhưng các tướng lĩnh quân đội đã quyết tâm, không nhân nhượng. Brucan ủng hộ họ, nói rằng đất nước Rumani cần được bảo đảm rằng chế độ độc tài Ceausescu đã chết, đã chấm dứt, và không có cách nào hay hơn là ‘cho quần chúng thấy xác chết của Chủ tịch’.

Iliescu cuối cùng bị thuyết phục. Ông nói: “Đúng ra là nên có một phiên xét xử đúng quy trình và trưng ra được mọi chứng cớ cần thiết. Nhưng tình hình không cho phép. Vậy hãy tiến hành xét xử vào ngày mai!”

Bản án được quyết định bởi một số ít người sau cuộc họp vừa kể và cũng chẳng có gì được lưu lại trên văn bản. Chỉ biết rằng Iliescu, Brucan, Militaru, Voican-Voiculescu và Stanculescu tất cả đều quyết định : Tử Hình cả hai vợ chồng nhà độc tài, và xử bắn ngay sau phiên xét xử.

Phản ứng

Dường như không có bất cứ lời phản đối nào, ngoại trừ nhà thơ Anna Blandiana bày tỏ thái độ bất đồng. Trong những giờ đầu tiên đầy phấn khích của cách mạng, bà được bổ nhiệm vào một vị trí trong Mặt trận để chứng tỏ đó là ‘chính quyền của hiền tài’. Nhưng bà không hề được thông báo về quyết định tử hình Ceausescu, và bà kinh hãi trước quyết định này. Bà từ chức ngay sau vụ xử bắn. Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong một chuỗi những rạn nứt công khai diễn ra sau đó trong hàng ngũ chính quyền mới.

Một trong những tiếng nói ít ỏi từ nước ngoài phản đối cuộc hành hình là của Eduard Shevardnadze, ngoại trưởng Liên Xô. Ông nói ông hiểu tình hình khó khăn như thế nào, ‘nhưng việc kia làm cho người ta thấy đắng cả miệng!’

Nhiều người Rumani tin rằng chính Liên Xô đã kích động và tham gia vào cuộc đảo chính lật đổ nhà độc tài. Chứng cớ, với họ, là sự có mặt của chính khách hậu trườngSilviu Brucan ở Moscow. Nhưng đó không thể xem là chứng cớ. Brucan thường xuyên đến Moscow để gặp gỡ các mối quan hệ và nhờ người Nga can thiệp, nhưng họ đều từ chối. Chính ông cũng phủ nhận một âm mưu như vậy. Ông nói: “Tình hình ở Rumani đơn giản là không thể làm được gì. Chúng tôi chỉ biết than phiền với nhau và mong ông ấy chết cho xong. Cả nước cũng mong ông ấy chết cho xong. Nhưng chúng tôi đã không thể làm gì hết.”

Gorbachev đã ra lệnh rằng Liên Xô sẽ không can thiệp trực tiếp vào Rumani, và thực tế cho thấy lệnh của ông đã được tuân thủ. Một trong những cố vấn đối ngoại chủ chốt của Gorbachev, ông Valentin Falin, cho biết: “Chúng tôi biết sẽ có chuyện xảy ra ở đó. Chúng tôi biết sẽ có nạn nhân… đó là điều gần như tất yếu sẽ xảy ra vì chế độ tại đây không chỉ thối nát mà còn không khoan nhượng! Nhưng ngay cả như thế chúng tôi cũng không thể dự đoán được vụ đổ máu như đã diễn ra. Rumani không còn đường thoát nào khác. Vì vậy chúng tôi chỉ biết… quan sát mà thôi.”

Nghịch lý siêu cường

Đoạn kết ở Bucharest đã diễn ra với nhiều nghịch lý. Vào lúc các cuộc đụng độ lên cao điểm, người Mỹ lo ngại rằng bạo động có thể lan rộng trên bán đảo Balkans.

Lawrence Eagleburger, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, nói với Ngoại trưởng James Baker rằng ông lo ngại người Rumani sẽ chĩa súng bắn vào sắc dân Hungary sinh sống tại đây, và không biết liệu Liên Xô có can thiệp để ngăn ngừa việc này không. Mỹ chủ trương chống Học thuyết Brezhnev [cho phép Liên Xô can thiệp quân sự để bảo vệ CNXH tại Đông Âu] nhưng trong trường hợp này thì không nên chống!.

Ngày 24 tháng 12, Ngoại trưởng Mỹ Baker chính thức đề nghị rằng: “Liên Xô có lợi ích và khả năng để can thiệp, ngăn chặn đổ máu.” Ông nói Mỹ sẽ không can thiệp “nếu Khối Warsaw cảm thấy cần thiết phải can thiệp” vào Rumani. Thời điểm này là gần 10 năm kể từ ngày Liên Xô xua quân xâm lăng Afghanistan, và lời đề nghị vừa kể của một Ngoại trưởng Mỹ quả thực là một đề nghị rất bất thường.

Ngoại trưởng Mỹ yêu cầu Đại sứ Mỹ tại Moscow, Jack Matlock, đánh tiếng với lãnh đạo Xô Viết, nhưng các vị này chỉ cười đáp lại. Ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadze nói ý tưởng này không phải là nham hiểm, “mà là cực kỳ ngu xuẩn”. Ông “dứt khoát chống lại” bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Cách mạng Rumani là “việc riêng của họ”. Bất cứ can thiệp nào của Liên Xô cũng sẽ “biến Ceausescu thành ông thánh tử đạo”. Đó là chưa kể mọi giao tranh đều chấm dứt sau khi ông bị hành quyết.

Cuối ngày 24 tháng 12, Đại sứ Matlock đã có một cuộc họp không vui với một quan chức của Shevardnadze, Ivan Aboimov, khi ông này lập đi lập lại rằng Liên Xô sẽ không can thiệp. Ông cũng chỉ ra rằng người Mỹ, mới vài tuần trước đó, đã đưa quân vào Panama để lật đổ nhà độc tài thất sủng Manuel Noriega, người đã đối xử hung bạo với dân chúng và tham gia đường dây buôn ma túy, nhập lậu heroin vào Mỹ. Aboinov nói: “Chúng tôi muốn để dành kiểu can thiệp đó cho các vị! Các vị nhắc đến Học thuyết Brezhnev phải không? Thế thì chúng tôi xin tặng các vị Học thuyết Brezhnev làm quà!”


Đền Tội



Targoviste, Rumani, thứ hai 25 tháng 12, 1989

11 giờ 45 sáng. Hai chiếc trực thăng quân sự đáp xuống trại lính tại thị trấn Targoviste, cách thủ đô Bucharest 120 km về phía bắc. Đây là một thị trấn ảm đạm, chuyên sản xuất thép, xây dựng theo thiết kế thô kệch được các nhà độc tài cộng sản từ Stalin trở đi ưa chuộng.

Từ chiếc trực thăng lớn, xuất hiện sáu tướng lĩnh quân đội mặc quân phục mới cáu, trĩu nặng giây tua vàng và huy chương. Theo sau là ba sĩ quan cấp dưới thuộc Bộ Tham mưu Quân đội Rumani, và một nhóm bốn nhân viên dân sự khác.

Một người, có vẻ cao cấp nhất, bắt đầu lớn tiếng ra lệnh ngay khi phái đoàn đáp xuống, sau chuyến bay dài 30 phút từ thủ đô. Đó là ông tướng đầu bạc, 53 tuổi, Victor Stanculescu, đại diện của chính phủ lâm thời Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc. Vào lúc này, chính phủ mới vẫn chưa kiểm soát được toàn cõi Rumani.

Sáng hôm đó, tướng đầu bạc được lệnh thi hành một nhiệm vụ khẩn cấp, cần một ít tế nhị nhưng thật nhiều thô bạo, đó là tổ chức cuộc xét xử Nicolae Ceausescu, nhà độc tài đã cai trị Rumani gần một phần tư thế kỷ, và vợ ông ta, bà Elena.

Mới ba ngày trước, ông bà đã phải bỏ chạy khỏi thủ đô, trong khi quần chúng phấn khích đón mừng cách mạng. Chỉ vài giờ sau, họ đã bị bắt và giam giữ tại trại lính ở Targoviste trong khi số phận của họ được quyết định tại Bucharest.

Lực lượng trung thành với Ceausescu, mật vụ Securitate, vẫn đang chiến đấu để đưa ông trở lại vị trí Chủ tịch. Chính quyền cách mạng, lúc đó chưa được củng cố, cuối cùng đã quyết định phải nhanh chóng đưa Ceausescu ra xét xử để chứng minh cho dân chúng cả nước Rumani biết ai đang thực sự nắm quyền.

Ông tướng đổi chiều

Stanculescu được chọn để thi hành nhiệm vụ dọn dẹp này. Cao ráo, lịch lãm, ông được biết đến như một người khéo léo, tinh khôn. Trong chế độ cũ, tới tận ngày 22 tháng 12, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cũng là một người bạn lâu năm của gia đình Ceausescu, một thực khách thường xuyên tại Cung Chủ tịch, và là một trong những nịnh thần chủ chốt trong triều đình Ceausescu. [Ngày 22 tháng 12, Stanculescu lên làm Bộ trưởng Quốc phòng, thay Tướng Milea vừa chết. Ông là người khuyên Ceausescu thoát thân bằng trực thăng.]

Ông rất nhanh nhạy thấy được gió đã đổi chiều, và là một trong những sĩ quan quân đội cao cấp đầu tiên về phe cách mạng. Ngoài khả năng thức thời nhạy bén, ông còn có tài tổ chức công việc kỹ lưỡng. Ông mang theo từ Bucharest các thẩm phán, công tố viên và luật sư biện hộ cần thiết cho phiên xét xử. Stanculescu cũng tận tình quan tâm đến những chi tiết khác: Trên chiếc trực thăng thứ hai vừa đáp là toán lính dù từ một đơn vị tinh nhuệ, được chọn cẩn thận vào sáng hôm đó để làm đội xử bắn. Và trước cả khi thủ tục pháp lý diễn ra, ông tướng cũng đã cẩn thận chọn xong địa điểm xử bắn – một điểm dọc theo bức tường nhìn ra khoảng sân rộng của trại lính.

Phòng xử và luật sư

‘Phòng xử án’ được chuẩn bị vội vã trong một hội trường tồi tàn với tường màu gỉ sắt. Năm chiếc bàn mặt nhựa được xếp lại với nhau làm bàn cho thẩm phán. Chỗ dành cho bị cáo là hai chiếc bàn và ghế được đặt trong góc phòng. Một khung cảnh nhếch nhác, thiếu hẳn vẻ trịnh trọng thường thấy trong những sự kiện quan trọng như thế này, nhưng theo cách nhìn của Tướng Stanculescu như thế cũng đã đủ.

Quá giữa trưa một chút, khi phái đoàn từ Bucharest bước vào phòng xử, hai bị cáo đã ngồi sẵn ở đó, có hai lính canh đứng kèm hai bên.

Mới ba ngày trước, Nicolae và Elena Ceausescu còn là cặp vợ chồng được khiếp sợ nhất và căm ghét nhất nước. Họ có quyền sinh sát với hơn 23 triệu dân Rumani. Họ điều hành một đất nước công an trị tàn bạo nhất Châu Âu. Truyền hình và báo chí trong nước hàng ngày đều phải ca tụng họ như những á thần thực sự.

Nhưng giờ thì họ hiện nguyên hình là một cặp vợ chồng già, cáu kỉnh, lẫn lộn, mệt đừ, sợ hãi, hay rì rầm cãi vặt. Họ mặc đúng bộ quần áo đã mặc lúc bỏ trốn khỏi thủ đô. Ông thì áo khoác dài bằng dạ màu đen, bên trong là bộ vét xám đã nhàu, nhìn ông như già hơn tuổi 71 của mình. Đầu đội chiếc mũ lông. Bà Elena, lớn hơn ông một tuổi, mặc áo khoác nâu vàng cổ lông thú, thêm chiếc khăn lụa xanh choàng đầu, che một phần tóc bạc.

Sáng hôm đó ở Bucharest, luật sư có tiếng Nicu Teodorescu đang ăn điểm tâm ngày Giáng sinh với gia đình thì nhận được cú điện thoại của trợ lý tân Chủ tịch Ion Iliescu, ông được Mặt trận Cứu nguy Tổ quốc yêu cầu trở thành luật sư bào chữa cho Ceausescu. Ông trả lời rằng đây sẽ là “một thử thách rất thú vị”. Sau khi suy nghĩ một lúc, ông đồng ý.

Lần đầu tiên ông gặp vợ chồng bị cáo là trong ‘phòng xử’ ở Targoviste, và chỉ có 10 phút để tư vấn cho hai thân chủ. Cuộc gặp không được như ý. Với quá ít thời gian để chuẩn bị nội dung bào chữa, ông cố gắng giải thích cho hai thân chủ rằng cơ hội tốt nhất để tránh bản án tử hình là lấy cớ mất trí. Đề nghị này bị bác bỏ lập tức. Teodorescu kể lại: “Khi tôi đề nghị như vậy thì họ, nhất là bà Elena, nói rằng như thế là dựng đứng câu chuyện quá đáng, làm họ thấy bị sỉ nhục nặng nề… Sau đó, ông bà từ chối luôn sự giúp đỡ của tôi.’

Phiên tòa

Khoảng 1 giờ chiều, ‘phiên tòa’ quân sự bắt đầu. Có năm thẩm phán quân sự, đều là các vị tướng mang quân phục, và hai công tố viên quân sự. Phiên tòa được xem là công khai vì có một sĩ quan thuộc cấp quay phim sự kiện này, nhưng anh được lệnh chỉ ghi hình các bị cáo mà thôi, không được quay cảnh nào có thẩm phán, công tố viên hay luật sự biện hộ.

Phiên xử kéo dài 55 phút. Nhà độc tài bị lật đổ đã trả lời với vẻ hằn học trong hầu hết buổi xét xử. Thỉnh thoảng, ông cầm chiếc mũ dạ đen đặt trên bàn trước mặt đưa lên, rồi ném mạnh xuống như để nhấn mạnh điểm nào đó. Bà ít biểu cảm hơn, hay nhìn chằm chằm vào khoảng không trước mặt. Thỉnh thoảng hai người cầm tay nhau và thì thầm, họ luôn gọi nhau là “mình ơi” "hãy can đảm lên".

Không có chứng cớ bằng văn bản nào được trưng ra chống lại họ, cũng không có nhân chứng nào được mời. Ngay từ đầu, Ceausescu đã bác bỏ quyền xét xử của phiên tòa. Ông lặp đi lặp lại rằng: ”Tôi chỉ công nhận Quốc hội mở rộng và đại diện của giai cấp công nhân. Tôi sẽ không ký bất cứ gì, không nói bất cứ gì! Tôi từ chối trả lời câu hỏi của những kẻ đã xúi giục cuộc đảo chính này. Tôi không phải là bị cáo. Tôi là Chủ tịch Nước Cộng hòa. Tôi là Tổng Tư lệnh của các người! Mặt trận ‘Phản bội’ Tổ quốc ở Bucharest… đã tiếm đoạt quyền hành!”

Các công tố viên đọc lời buộc tội. Ceausescu làm mặt nghiêm suốt thời gian cáo buộc:

CÔNG TỐ VIÊN: Đây là những tội ác chúng tôi cáo buộc ông bà, và yêu cầu tòa án xử tử hình cả hai người:
  1. Tội diệt chủng.
  2. Tội tổ chức hoạt động vũ trang chống lại nhân dân và nhà nước.
  3. Tội phá hoại tài sản và dinh thự công cộng.
  4. Tội phá hoại nền kinh tế quốc gia.
  5. Tội tìm cách bỏ nước ra đi với số tiền hơn 1 tỉ đô-la Mỹ, trong các tài khoản ở ngân hàng nước ngoài.
Các bị cáo có nghe không? Mời đứng dậy.

CEAUSESCU: (vẫn ngồi) Tất cả những điều đó đều dối trá. Tôi không công nhận tòa án này!

CÔNG TỐ VIÊN: Ông có biết mình đã bị loại khỏi chức vụ… Chủ tịch nước hay không? Các bị cáo có biết mình đang bị xét xử với tư cách là hai công dân bình thường không?

CEAUSESCU: Tôi sẽ không trả lời những kẻ đã tiến hành cuộc đảo chính này, với sự hậu thuẫn của các tổ chức nước ngoài. Nhân dân sẽ chống lại bọn phản bội!

CÔNG TỐ VIÊN: Tại sao ông làm những việc vừa kể, đưa nhân dân Rumani đến tình trạng ô nhục như hiện nay… Ông đại diện đất nước mà sao ông lại làm cho đất nước đói khổ?

CEAUSESCU: Tôi từ chối trả lời câu hỏi. Tôi không công nhận các người! Tất cả những lời buộc tội đều dối trá… Tôi nói cho các người nghe điều này, chưa bao giờ trong lịch sử Rumani đất nước lại tiến bộ như vậy. Chúng tôi đã xây trường học, đảm bảo có bác sĩ, đảm bảo có mọi thứ cần thiết cho cuộc sống có nhân phẩm!

CÔNG TỐ VIÊN: Hãy nói cho chúng tôi nghe về số tiền ông chuyển qua các ngân hàng Thụy Sĩ?

CEAUSESCU: Tôi không trả lời câu hỏi của một băng đảng dám đứng ra đảo chính!

Elena kiềm chế hơn, phần nhiều im lặng, chỉ trừ khi công tố viên hỏi: “Người dân Rumani chúng tôi thì không có thịt mà ăn. Vậy mà con gái bà lại dùng cân bằng vàng để cân thịt mua từ nước ngoài về, thế là sao?” Bà bức xúc la to: “Các anh dám ăn nói như thế à?” Có một lúc chính Ceausescu lên tiếng: “Làm cho xong vụ này đi” và nhìn vào đồng hồ.

Tuyên án

Toà ngừng họp chỉ trong 5 phút để nghị án. Ceausescu không chịu đứng dậy lúc các thẩm phán trở lại phòng xử.

Nhưng luật sư biện hộ Teodorescu đã không nêu lên điều này trong phiên tòa. Rất có thể là Ceausescu, dù đã kết án tử hình vô số người, không hề biết đến chi tiết này trong luật pháp. Nhưng dù sao thì đó không phải là một ngày đẹp trời để nói chuyện pháp lý.
Công lý đã được thực thi một cách sơ sài, cẩu thả và thô vụng. Trong phòng xử, tay của Ceausescu bị trói sau lưng bằng dây. Ceausescu vẫn giữ được vẻ trịch thượng và khá bình tĩnh trong vài phút cuối cùng. Ông nói: “Kẻ gây ra cuộc đảo chính có thể bắn bất cứ ai họ muốn. Kẻ phản bội sẽ phải trả lời cho hành vi của mình. Rumani sẽ sống và sẽ biết về sự phản bội của các người. Thà là chiến đấu trong vinh quang còn hơn sống như nô lệ!” Elena thì khóc và la hét, đay nghiến đến cùng. Gần như hoảng loạn, bà thét lên: “Không được trói chúng tôi! Thật xấu hổ, nhục nhã! Tôi nuôi các anh như mẹ. Sao các anh lại làm thế?!”

Pháp trường, “Đ. mẹ mày!” 

Toán lính áp tải hai vợ chồng đi khoảng 40 mét dọc theo hành lang dẫn đến khoảng sân rộng trong trại lính để làm pháp trường. Lúc bị dẫn đi, gặp những người lính trói tay họ lúc nãy nói riễu : “Bây giờ, ông bà gặp rắc rối to rồi! Xuống Địa Ngục đi” thì Chủ Tịch Nước kiêm CT Đảng N.Ceausescu thì bắt đầu hát Quốc tế ca. Còn vợ ông, UVBCT và là nhân vật số 2, chỉ sau Người Cầm lái Thông thái, Con của Mặt trời, Dòng Danube Tư tưởng, Thiên tài của Dãy núi Carpathians, và là đương kim Đệ Nhất Phu Nhân E. Elena thì gào vào mặt họ mấy lần câu :  “Địt mẹ mày!” 

Họ dường như không có ý niệm là cuộc hành hình sẽ diễn ra lập tức, cho đến khi họ ra tới khoảng sân làm pháp trường. Lúc đó, ông bà thực sự hoảng hốt. Bà thét to với ông: “Im đi Nicu! Hình như họ sắp giết mình như giết chó. Không tin được!” Lời cuối cùng của bà là: “Nếu giết thì hãy giết chúng tôi chung với nhau."

Đội xử bắn đã sẵn sàng khi phiên xử diễn ra được một nửa. Tám lính dù, được chính Stanculescu tuyển chọn và được bay từ Bucharest đến, không biết nhiệm vụ của mình là gì cho đến khi họ có mặt ở Targoviste. Ba trong số được chọn để thực hiện hành vi cuối cùng, đó là: Dorin Varlan, Octavian Gheorghiu, và Ionel Boeru. Trang bị súng tự động AK-47, họ xếp thành hàng đứng cạnh bồn hoa chờ cặp vợ chồng đi vào sân.

Lệnh dành cho người xử bắn là không được bắn Ceausescu ở vùng trên ngực. Vì ông phải được nhận diện qua hình chụp sau khi chết. Không có lệnh tương tự dành cho bà Elena. Đội hành hình đưa vợ chồng Ceausescu đến đứng trước bức tường, ông bên phải, bà bên trái. Trông họ thật thảm hại.

Gheorghiu sau này kể lại: “Bà nói họ muốn chết chung, nên chúng tôi đặt họ đứng cạnh nhau, rồi bước sáu bước lui và sau đó nổ súng. Không ai ra lệnh bắn, họ chỉ nói làm sao cho nhanh! Tôi bắn bảy viên đạn vào ngực ông và bắn hết số còn lại trong băng đạn vào đầu bà.” Ông thì oằn người ra sau, sụp đầu gối xuống đất, chiếc mũ da trên đầu văng ra. Bà thì đổ qua một bên.

Hỗn độn liền diễn ra. Gần như toàn bộ số binh lính tại căn cứ hôm đó đều chứng kiến cuộc hành hình. Ngay khi đội xử bắn làm xong nhiệm vụ thì mọi người trong sân có súng bắt đầu bắn xối xả vào hai xác chết, cho đến khi chỉ huy căn cứ, Trung tá Mares, ra lệnh ngưng bắn. Nhiều năm sau đó, vẫn còn dấu vết của hàng trăm phát đạn trên bức tường trong sân và trên khung cửa sổ cách mặt đất khoảng ba mét.

Hai ngôi mộ của Popa Dan và Enescu Vasile

Hai xác chết được gói trong vải bạt, được chở về thủ đô bằng trực thăng, với sự canh gác của toán lính dù đã hành quyết họ.

Sau đó, xác được đưa xuống sân bóng nơi tập luyện của đội bóng đá Steaua Bucharest, nằm ở ngoại ô phía tây nam thành phố. Trong một diễn biến rợn người, xác của họ bỗng bí mật dời đi nơi khác trong đêm. Các đội tìm kiếm phải lục lọi toàn bộ khu vực suốt đêm, trước khi tìm thấy xác vào sáng hôm sau đang nằm gần một mái che trong khu vực sân thi đấu. Điều gì xảy ra cho hai xác chết trong mấy giờ này đến nay vẫn còn là bí ẩn.

Ngày hôm sau, họ được chôn tại nghĩa trang Ghencea gần đó. Khi chết, hai ông bà được đặt nằm cách nhau 50 mét, tách biệt bởi một lối đi, và được đặt tên mới. Người ta lấy hai thập giá gỗ trơn rồi vẽ vội bằng sơn tên giả của hai ông bà. Nhà độc tài một thời làm người dân khiếp sợ Ceausescu giờ mang tên Popa Dan, còn vợ ông thì mang tên Enescu Vasile
.