Trang

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Chiến dịch Barbarossa - Trận đánh lớn nhất lịch sử chiến tranh thế giới.

Kế hoạch Barbarossa
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tàm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông ta trong "Đế chế thứ ba" vạch ra. Nằm trong chiến lược mở rộng "không gian sinh tồn" của "chủng tộc Arian" ra toàn cấu, kế hoạch đó dự kiến các phương án tấn công Liên bang Xô Viết, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội; chiếm lĩnh các vùng đất đai nông nghiệp màu mỡ, các khu công nghiệp, các mỏ dầu, quặng, than đá và nhiều tài nguyên khác để phục vụ cho mục tiêu chinh phục toàn thế giới. Đây là kế hoạch quân sự - chính trị chứa đựng những tham vọng lớn nhất của mọi thời đại và cũng là kế hoạch quân sự - chính trị lớn nhất bị phá sản bởi những lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới đồng tâm làm thất bại nó. Trong đó, Liên bang Xô Viết đóng vai trò quyết định trực tiếp và quan trọng.
Những tính toán chính trị-quân sự
Ý đồ của Hitler
Ngay từ trong tác phẩm Mein Kampf của mình (viết năm 1933 khi đang ngồi tù sau vụ "Bạo động tiệm bia"), Hitler đã xác định cụ thể "không gian sinh tồn" sẽ được tìm thấy ở phương Đông. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa phát xít Đức xem Liên Xô như là một vùng đất của "dân tộc hạ đẳng" (untermensch) Xlavơ, bị những ngườiBolshevik Do Thái thống trị. Mein Kampf cũng khẳng định rằng, vận mệnh của nước Đức là tổ chức một cuộc "Đông tiến" như nó đã từng làm "sáu trăm năm về trước" và "sự cáo chung của chế độ thống trị của người Do Thái cũng sẽ là sự cáo chung của nước Nga với tư cách là một quốc gia". Tiếp đó, Hitler lại đề cập đến một cuộc chiến không thể tránh khỏi chống lại "chủ nghĩa Đại Xlavơ" và kẻ chiến thắng trong cuộc chiến này sẽ trở thành "người thống trị vĩnh viễn của thế giới"."Do đó, chính sách của nhà nước phát xít Đức là phải giết, trục xuất, nô lệ hóa người Nga cũng như các dân tộc Xlavơ, đồng thời đưa người Đức đến sống ở các vùng đất cũ của người Xlavơ.
"Danh tiếng" của Stalin lại càng khiến Đức Quốc xã củng cố thêm quyết định tấn công Liên Xô và niềm tin của họ vào sự chiến thắng. Vào cuối thập niên 1930, cuộcĐại Thanh trừng của Stalin đã khiến rất nhiều tướng lĩnh tài năng của Liên Xô bị tù oan hoặc bị chết oan, điều này khiến Hồng quân Liên Xô trở nên suy yếu và lâm vào tình trạng thiếu hụt những cán bộ lãnh đạo giỏi. Bộ máy tuyên truyền của chế độ phát xít Đức cũng thường xuyên thổi phồng sự "tàn bạo" của chính quyền Xô Viết trong chiến dịch tuyên truyền chống lại các dân tộc Xlavơ. Họ cũng thường xuyên tuyên truyền rằng Hồng quân Liên Xô đang chuẩn bị một cuộc tấn công xâm lược Đức, vì vậy cuộc xâm lược của Đức được xem như chiến tranh ngăn ngừa.
Vào ngày 5 tháng 12 năm 1940, Hitler nhận được các kế hoạch quân sự về cuộc xâm lược, ông chuẩn y cho tất cả, với thời điểm bắt đầu là tháng 5 năm 1941. Ngày 18 tháng 12 năm 1940, Hitler ký Chỉ thị Chiến tranh số 21 dành cho Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế Đức về một chiến dịch mang mật danh Chiến dịch Barbarossa, mở đầu bằng câu: "Wehrmacht (quân đội) cần phải chuẩn bị cho việc nghiền nát nước Nga Xô Viết trong một chiến dịch chớp nhoáng." Tên của chiến dịch, Barbarossa (trong tiếng Đức có nghĩa là "râu đỏ"), đặt theo biệt hiệu của Hoàng đế Frederick I của Thánh chế La Mã, người cầm đầu quân Thập tự Đức trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ 3 (1189–1192). Ngày bắt đầu chiến dịch được ấn định là 15 tháng 5 năm 1941. Về phía Liên Xô, trong một cuộc nói chuyện với các tướng lãnh, Iosif Stalin đã đề cập đến ý đồ của tấn công Liên Xô của Hitler trong cuốn Mein Kampf, và ông cho rằng Liên Xô lúc nào cũng sẵn sàng đáp trả cuộc tấn công xâm lược của Đức, ông cũng cho rằng Hitler luôn nghĩ quân Liên Xô cần phải mất nhiều năm mới có thể sẵn sàng cho một cuộc tấn công như vậy. Vì vậy, Stalin cho rằng "chúng ta phải ở trong tình trạng sẵn sàng sớm hơn rất nhiều" và "chúng ta sẽ cố gắng trì hoãn cuộc tấn công này thêm hai năm nữa."
Mùa thu 1940, các sĩ quan quân sự cao cấp của Đức soạn một bức giác thư có nội dung đề cập đến những rủi ro sẽ xảy đến khi Đức Quốc xã tiến hành một cuộc tấn công xâm lược Liên Xô. Họ cho rằng Ukraina, Belorussia và các quốc gia vùng Ban Tích rồi sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế Đức.Một sĩ quan Đức khác cho rằng ở thời điểm hiện tại, nhà nước Liên Xô tỏ ra vô hại đối với Đức và vì vậy việc chiếm đóng Liên Xô không đem lại bất cứ lợi ích gì cho Đức.
Hitler bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên can ấy, và ông ta lệnh cho Herman Goering "bất cứ ai ở tất cả các phe luôn luôn làm dấy lên những nỗi lo sợ về kinh tế chống lại mối đe dọa về một cuộc chiến tranh với Nga. Kể từ bây giờ ông ta không thèm nghe bất cứ ý kiến nào như vật nữa và đóng chặt cả hai tai để đầu óc ông ta được yên tĩnh." Lệnh này được truyền cho Tướng Georg Thomas, người lâu nay đã chuẩn bị các báo cáo về các hậu quả tiêu cực của việc chiếm đóng Liên Xô - rằng việc này rốt cuộc sẽ gây ra sự suy kiệt cho nền kinh tế trừ phi Liên Xô bị chiếm đóng nhưng vẫn còn nguyên vẹn.
Chúng ta chỉ cần đá tung cái cửa là toàn bộ cơ cấu mục ruỗng đó sẽ sập đổ. —Adolf Hitler
Mục đích của chiến dịch Barbarossa là tấn công, chiếm đóng MoskvaLeningrad - một chiến thắng mang tính chất biểu tượng; đánh chiếm toàn bộ vùng dầu mỏ nằm ở phía Nam Ukraina - một sự chiếm đóng mang tính chiến lược và kinh tế. Hitler và các tướng lĩnh của ông ta đã từng tranh cãi về việc ưu tiên cái nào trong ba mục tiêu trên. Và để đi tới quyết định cuối cùng thì cần có một sự thỏa hiệp. Bản thân Hitler luôn tự cho rằng mình là một thiên tài quân sự và chính trị, ông ta luôn nhấn mạnh yêu cầu của mình với các thuộc cấp: "Leningrad trước hết, vùng lòng chảo Donetsk là thứ hai, Moskva là thứ ba." Hitler đã thiếu kiên nhẫn để theo kịp tham vọng lâu dài của mình ở phía Đông, ông ta tin chắc rằng người Anh sẽ phải chủ động yêu cầu phía Đức hòa giải sau khi Đức Quốc xã ca khúc khải hoàn ở Liên Xô, khu vực mà người Đức thực sự thèm muốn. Trong hồi ký của mình, tướng Franz Halder ghi rằng với việc hủy diệt Liên Xô, Đức Quốc xã cũng sẽ hủy diệt luôn hy vọng chiến thắng của người Anh.
Hitler cũng đã tỏ ra quá tự tin sau những chiến thắng chớp nhoáng của quân đội phát xít Đức ở Tây Âu và sau khi chứng kiến những nhược điểm mà Hồng quân Xô Viết bộc lộ trong cuộc Chiến tranh Xô-Phần vào năm 1939-1940. Ông ta cho rằng quân Đức sẽ giành được một chiến thắng nhanh chóng trong vòng vài tháng và vì vậy không chuẩn bị những cơ sở vật chất dự phòng cho việc chiến tranh sẽ kéo dài đến mùa đông. Điều này cũng có nghĩa là quân Đức thiếu hụt áo ấm cũng như những chuẩn bị cần thiết cho một chiến dịch kéo dài khi họ bắt đầu cuộc chiến. Và việc cho rằng Liên Xô sẽ nhanh chóng đầu hàng cũng chính là sai lầm lớn của Hitler.

Quân đội Đức Quốc xã
Sự phát triển của quân đội Đức Quốc xã
từ năm 1939 đến năm 1941

Những chiếc máy bay của Không quân Đức cũng gặp phải nhiều vấn đề. Ngoại trừ mẫu Messerschmitt Bf 109 tân tiến, những mẫu máy bay còn lại cũng chưa đạt được yêu cầu của cuộc chiến. Mẫu máy bay ném bom Ju-87 Stuka nổi tiếng thật ra chỉ hoạt động hiệu quả trước những đối thủ có hệ thống phòng không yếu kém. Tầm hoạt động và khả năng chứa bom của các mẫu máy bay ném bom chủ lực Dornier-17Ju-88 tỏ ra không tương xứng trong cuộc oanh kích nước Anh năm 1941. Mẫu máy bay vận tải Ju-52 mặc dù rất bền bỉ và linh hoạt nhưng lại bị hạn chế nhiều về sức chứa và tầm bay. Thêm nữa không quân Đức đã bị thiệt hại khá nặng sau những trận chiến tại Anh và cuộc tấn công đảo Crete; 146 máy bay Ju-52 đã bị bắn hạ và 150 chiếc khác bị bắn hỏng rất nặng. Thực chất lực lượng Luftwaffe lừng danh chỉ thích hợp với những nhiệm vụ ném bom chiến thuật ngắn hạn chứ không phải ném bom chiến lược lâu dài; và rõ ràng họ rất khó duy trì ưu thế tại những vùng trời xa xôi và lạ lẫm của miền Tây nước Nga.

Quân đội Liên Xô
Ưu thế về số lượng vũ khí và trang bị của quân đội Xô Viết không thể nào bù nổi sự yếu kém về huấn luyện và tình trạng sẵn sàng chiến đấu như các đối thủ Đức Quốc xã của họ. Nhiều sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn và các sĩ quan cấp cao khác đã chết oan trong cuộc Đại thanh trừng của Stalin (1936-1938). Trong số những cán bộ, sĩ quan bị bắt, chỉ có 15% được phục chức vì nhu cầu chiến tranh[19]; trong số 90 tướng lãnh bị bắt, chỉ có 6 người được thả ngay trước khi cuộc chiến bùng nổ; và trong số 57 sĩ quan chỉ huy cấp quân đoàn bị bắt thì chỉ có 7 người được trở lại quân ngũ; trong số 180 sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn thì chỉ có 36 người được phục hồi chức vụ. Trong số 75000-80000 cán bộ Hồng quân, 30.000 người đã bị xử tù, nhiều người bị tử hình hoặc chết trong tù, và một số lớn hơn bị đưa đến vùng Siberia. Thay thế họ là những người được Berya và Yezov coi là "đáng tin cậy về chính trị". Trong số đó có ba trong số năm Nguyên soái Liên Xô thời trước chiến tranh, toàn bộ 11 Phó ủy viên nhân dân phụ trách Quốc phòng, 14 trong số 16 chỉ huy cao cấp, 60 trong số 67 chỉ huy cấp quân đoàn, 136 trong số 139 chỉ huy cấp sư đoàn, 221 trong số 397 chỉ huy cấp lữ đoàn, và 50% số chỉ huy cấp trung đoàn. Ngoài ra còn có 10000 sĩ quan bị sa thải do những vi phạm có tính phẩm chất. Thế chỗ họ là những sĩ quan trẻ hơn và cũng non kém hơn về kinh nghiệm; ví dụ cho tới tháng 6 năm 1941 có tới 75% cán bộ của Hồng quân có thâm niên giữ chức vụ không quá 1 năm. Độ tuổi trung bình của số sĩ quan chỉ huy cấp quân đoàn của Hồng quân trẻ hơn 12 năm so với độ tuổi trung bình của các sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn Đức. Các sĩ quan non kém này thiếu hẳn sự huấn luyện cần thiết cho công tác, tự bản thân họ cũng có cảm giác như bị ép nhận những chức vụ mà bản thân cấp hàm cũng như kinh nghiệm của mình không đủ để đảm đương nó.
Hơn nữa, mặc dù Chiến thuật thọc sâu nổi danh của Nguyên soái Tukhachevsky trên danh nghĩa vẫn được xem là một học thuyết chính của Hồng quân Liên Xô, nhưng sau khi ông bị xử tử thì số phận của học thuyết này cũng trở nên u ám. Nhiều tác phẩm của ông bị đốt bỏ và bị cấm lưu hành.
Cuộc Đại thanh trừng cũng để lại một hậu quả nghiêm trọng trong tư tưởng của các cán bộ, sĩ quân Hồng quân: họ hiểu rằng việc nêu lên những ý kiến độc lập và trái chiều chỉ dẫn đến hậu quả thiệt thân. Vì vậy phần lớn những cán bộ, sĩ quan chỉ máy móc áp dụng các kiến thức trong sách vở bất chấp sự biến động của tình hình thực tế; những sĩ quan dám mạo hiểm đề xuất và áp dụng những sáng kiến mới như G. K. Zhukov chỉ là thiểu số. Trên thực tế, sau cuộc chiến tranh với Nhật Bản và Phần Lan những năm 1938-1940, một nhóm nhỏ những cán bộ sĩ quan Hồng quân có năng lực đã bắt đầu nổi trội lên, nhưng nhìn chung kinh nghiệm và cả sự tự tin của họ không thể nào bì được với các sĩ quan chỉ huy của Wehrmacht.

Lục quân
Xét về một khía cạnh nào đó, ưu thế về số lượng của quân đội Xô Viết phải nói là rất đáng kể. Quân Liên Xô có 23106 xe tăng, và trong đó 12782 chiếc đang ở năm quân khu ở phía Tây của đất nước (3 trong số đó trực tiếp hứng chịu cuộc tấn công xâm lược của Đức). Về phía Đức, có tổng cộng 5200 xe tăng, trong số đó 3350 chiếc tham gia chiến dịch Barbarossa. Rõ ràng xét về số lượng thì Liên Xô trội hơn với ưu thế 4 chọi 1, tuy nhiên số lượng những xe tăng tân tiến như T-34 hay được trang bị vỏ giáp mạnh như KV-1 sẵn sàng chiến đầu thì không nhiều (1861 chiếc được sản xuất tính đến ngày 22/6/1941). Những xe tăng này thậm chí chỉ chiếm 7,2% trong tổng số tăng thiết giáp Xô Viết. Về chất lượng, rõ ràng các xe tăng T-34 và KV-1 hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với tất các xe tăng Đức vào thời điểm đó; và chúng thật sự là cơn ác mộng đối với các vũ khí chống tăng của Đức. Tuy nhiên Hồng quân Liên Xô vẫn thiếu thốn các thiết bị liên lạc vô tuyến cần thiết cho chúng, khiến việc liên lạc và chỉ huy tác chiến rất khó khăn, có thể nói là gần như không thể. Cũng như thiếu hẳn sự huấn luyện và kinh nghiệm sử dụng hiệu quả các vũ khí mạnh này. Việc bảo trì cũng như tình trạng sẵn sàng chiến đấu của các xe tăng rất kém, đạn dược và hệ thống liên lạc vô tuyến không được cung ứng đầy đủ, và nhiều đơn vị còn không có lực lượng xe tải hậu cần sẵn sàng cung ứng nhiên liệu và đạn dược cho chúng. Số lượng quá ít cộng với những vấn đề về huấn luyện và hậu cần đã làm giảm thiểu sức mạnh của các vũ khí này.
Đồng thời, phần lớn các lực lương tăng thiết giáp Xô Viết bị phân tán thành những đơn vị đồn trú các nhau có khi đến cả trăm cây số, và một phần lực lượng tăng thiết giáp lại nằm dưới quyền của vào các đơn vị bộ binh với mục đích dùng xe tăng hỗ trợ cho bộ binh tác chiến. Có thể nói các lực lượng tăng thiết giáp của Liên Xô bị phân tán cả về mặt địa lý và cả về mặt cấu trúc, chính điều này đã khiến việc tập hợp các lực lượng tăng thiết giáp thành một quả đấm mạnh cho những đòn tấn công thọc sâu và độc lập gần như là không thể.
Lục quân Liên Xô đã bị phân tán và ở trong tình trạng kém chuẩn bị, các đơn vị của nó thường bị chia tách và không được tập hợp lại với nhau trước trận đánh. Mặc dù Quân đội Liên Xô có trong tay một số pháo rất lớn và được thiết kế tốt, nhưng dự trữ đạn dược của một phần trong số pháo đó là con số không. Các đơn vị pháo binh thường thiếu hẳn các phương tiện vận tải để di chuyển các khẩu pháo của họ. Pháo binh Liên Xô cũng thiếu hụt những công nghệ điều khiển bắn tiên tiến.. Các đơn vị xe tăng thì ít được trang bị tốt và cũng thiếu luôn sự huấn luyện cần thiết cũng như sự hỗ trợ về hậu cần. Sự bảo trì cũng rất kém. Các đội quân được tung vào trận mà không được sắp xếp, không được bổ sung đầy đủ đạn dược, nhiên liệu, quân trang quân dụng. Thông thường sau mỗi trận chiến, các đơn bị thường bị tiêu diệt hoặc hiệu quả chiến đấu bị sụt giảm trầm trọng. Trong thời gian này, Quân đội Liên Xô đang trong thời kỳ tổ chức lại các lực lượng tăng thiết giáp thành các quân đoàn lớn, điều này càng làm tăng thêm sự hỗn loạn và thiếu tổ chức trong quân đội vào thời kỳ dầu của cuộc chiến.

Không quân
Ưu thế số lượng máy bay cũng nghiêng về phía Liên Xô: về quy mô thì không quân Xô Viết có thể được xem là lớn nhất thế giới lúc đó với số lượng 9567 chiếc phi cơ chiến đấu. Tuy nhiên, đa số máy bay của Liên Xô rất cũ kỹ, lạc hậu, suffered from prolonged use và không có hệ thống bộ đàm. Những nỗ lực chiến tranh của Liên Xô trong giai đoạn đầu tiên của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã bị cản trở rất nghiêm trọng bởi sự thiếu hụt những máy bay kiểu mới. Rất nhiều máy bay của Không quân Xô Viết (Voenno-Vozdushnye Sily, VVS) là những loại cũ kỹ lỗi thời ví dụ như các máy bay hai tầng cánh Polikarpov I-15Polikarpov I-16. Năm 1941, các mẫu máy bay như MiG-3, LaGG-3Yak-1 chỉ vừa mới bắt đầu sản xuất, và các tính năng của nó thì vẫn thua xa các mẫu máy bay Đức nhưMesserschmitt Bf 109FW 190 khi chúng tham gia cuộc chiến tranh vào tháng 9 năm 1941. Chỉ một lượng nhỏ máy bay có trang bị những thiết bị liên lạc bằng sóng vô tuyến và những chiếc máy bay sẵn sàng hoạt động thì lại rất khó sử dụng (do phi công chưa tập luyện nhiều) và độ tin cậy không cao. Sự thể hiện yếu kém của Không quân Xô Viết trong cuộc chiến tranh Xô-Phần năm 1939 đã khiến không quân Đức (Luftwaffe) càng thêm chắc chắn về việc quân đội Liên Xô sẽ dễ dàng bị đánh bại. Việc huấn luyện gấp rút để đối phó với không quân Đức phải đến năm 1942 mới hoàn thành. Theo Chỉ thị số 0362 Bộ dân ủy Quốc phòng ngày 22 tháng 12 năm 1940, việc đào tạo phi công diễn ra hết sức gấp rút. Thậm chí đã có một điều không thể tin nổi là trong khi Không quân Xô Viết có 201 chiếc MiG-3 và 37 chiếc MiG-1 hoạt động được vào ngày 22 tháng 6 năm 1941 thì chỉ có 4 phi công đã được huấn luyện để sử dụng các máy bay này.
Phần lớn quân đội Xô Viết đang ở trong tình trạng thời bình. Điều này giải thích tại sao các đơn vị không quân Xô Viết lại để các máy bay nằm thành những cụm sát nhau trong một không gian chật hẹp thay vì phân tán chúng ra. Chính cách sắp xếp sai lầm đó đã khiến các máy bay này trở thành mục tiêu dễ bị tấn công bởi những trận không kích của không quân Đức (Luftwaffe) vào những ngày đầu của cuộc chiến. Thêm một điều tai hại nữa là ngay trước cuộc tấn công xâm lược,Không quân Xô Viết (VVS) không được phép bắn hạ bất cứ máy bay huấn luyện nào của Luftwaffe bất chấp những máy bay này đã xâm phạm không phận Liên Xô hàng trăm lần.
Không quân Xô Viết cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc Đại thanh trừng. Nhiều cán bộ sĩ quan không quân của Liên Xô trở thành nạn nhân của nó và phần lớn những người thay thế họ đều thiếu kinh nghiệm. Vào thời điểm chiến dịch Barbarossa mở màn, nhiều phi công Xô Viết ở tiền tuyến chỉ từng lái máy bay có 4 tiếng đồng hồ. Hơn nữa, những cán bộ của không quân Xô Viết còn phải đối mặt với nội sợ hãi bị bắt giữ vì tội "phá hoại" khi những tai nạn máy bay xảy ra. Đã có ít nhất một kỹ sư không quân bị xử bắn khi một mẫu máy bay thử nghiệm bị rơi, và nhiều kỹ sư khác phải làm việc trong các "phòng thiết kế" nằm trong trại giam.Rõ ràng những sự "trừng phạt" như thế này không hề khuyến khích sự sáng tạo của người kỹ sư trong thiết kế. Đến mức vào ngày 12 tháng 4 năm 1941, trong một báo cáo gửi Stalin, Zhukov và Timoshenko đã phải phàn nàn là Không quân Xô Viết mất từ hai đến ba chiếc máy bay mỗi ngày do tai nạn, và họ đã yêu cầu Stalin thay thế một số sĩ quan cao cấp trong Không quân Xô Viết.
Đợt cải tổ gấp rút (1940-1941)
Tuy nhiên, trong cuộc Chiến tranh Xô-Phần (1939-1940) Hồng quân đã gặp phải những trải nghiệm khó nuốt trôi. Đồng thời, hiệu quả của chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng (Blitzkrieg) mà người Đức áp dụng chống lại quân đội Pháp lại càng làm tăng thêm vị đắng cho những tổn thất ở Phần Lan. Liên Xô bắt đầu tiến hành cải tổ lại lực lượng quân sự của mình. Kliment Voroshilov bị Stalin chỉ trích nặng nề và bị loại khỏi chức Dân ủy Quốc phòng, thay vào đó là Nguyên soái S. K. Timoshenko. Timoshenko đã tiến hành loại bỏ những sĩ quan yếu kém về năng lực trong Hồng quân. Các cán bộ, sĩ quan bị thất sủng trong cuộc Đại thanh trừng nay được trọng dụng trở lại. Những người chứng tỏ được năng lực của mình trong cuộc chiến tranh với Phần Lan và Nhật Bản như Zhukov, Meretskov được cất nhắc. Những chính ủy đáng ghét từng gặp thời trong cuộc Đại thanh trừng, nay đã phải quay trở về vị trí của mình. Sự thống nhất trong bộ máy chỉ huy Xô Viết được phục hồi trở lại. Quyền hạn của các cán bộ sĩ quan Hồng quân được nới rộng như thời kỳ Sa hoàng. Những sự thay đổi đột ngột đó về lâu dài sẽ có lợi cho Hồng quân, nhưng trong một khoảng thời gian ngắn trước mắt nó đã gây ra sự xáo trộn và hỗn loạn lớn cho chính nó. Trong vòng tám tháng, Ban tham mưu Xô Viết đã ba lần thay đổi tham mưu trưởng. Sau đó một số sĩ quan có kinh nghiệm lại được điều đến Siberia nhằm đề phòng cuộc tấn công bất ngờ của quân Nhật và điều này lại gây thêm một sự xáo trộn lớn trong các đơn vị Hồng quân. Như đã nói, trong năm 1941 3/4 số cán bộ, sĩ quan Hồng quân chỉ mới nắm giữ chức vụ của mình chưa quá một năm.
Liên Xô bắt đầu học theo Đức và tổ chức phần lớn các lực lượng thiết giáp thành những sư đoàn và quân đoàn độc lập. Ngày 6 tháng 7 năm 1940, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ra quyết định thành lập tám quân đoàn thiết giáp mới với quy mô lớn hơn một quân đoàn trước đó. Tháng 2/1941 Dân ủy Chiến tranh quyết định đưa 21 trong số 29 quân đoàn thiết giáp đi vào hoạt động. Một số sư đoàn thiết giáp và bộ binh cơ giới độc lập cũng được thiết lập. Tuy nhiên việc tái trang bị này chỉ vừa mới được tiến hành một phần khi chiến dịch Barbarossa bắt đầu,, và những cải tổ trong Hồng quân vẫn chịu nhiều sự bó buộc của các thế lực bảo thủ. Vì vậy số xe tăng này không đủ để biến các quân đoàn thiết giáp thành một sức mạnh có hệ thống và thậm chí không nhận được đầy đủ sự hỗ trợ cần thiết về hậu cần và huấn luyện.
Kết quả là, mặc dù xét trên các thông số nằm trên giấy tờ, năm 1941 lực lượng của Hồng quân ít nhất là ngang ngửa với đối thủ Đức Quốc xã, thực tế lại cho thấy điều ngược lại. Hệ thống chỉ huy kém tài năng cộng với sự thiếu hụt về trang bị, thiết hụt về lực lượng hậu cần được cơ giới hóa và thiếu hụt cả về huấn luyện đã đặt Quân đội Liên Xô vào một tình thế bất lợi hết sức trầm trọng.
Không quân Xô Viết đã bị thiệt hại nặng nề trong năm 1941 do không được chuẩn bị để đối phó với cuộc tấn công bất ngờ của phát xít Đức. Ngay trong ngày chiến đấu đầu tiên, đã có đến 1.200 máy bay của Liên Xô bị thiêu cháy trên các sân bay và bị bắn rơi trong các trận không chiến. Trong khi đó, quân đội Đức Quốc xã năm 1941 là đội quân được huấn luyện tốt nhất và có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên các chiến trường châu Âu và Bắc Phi. Giới quân sự các nước phe Trục đã xây dựng học thuyết cơ động tấn công để tiêu diệt đối phương dựa vào sự ưu việt của các phương tiện thông tin liên lạc vô tuyến để tổ chức tác chiến và họ giữ được sự tự tin sau những chiến thắng ở Châu Âu với tổn thất rất nhỏ. Hầu hết các kế hoạch của Liên Xô đều cho rằng quân Đức sẽ không tấn công trước năm 1942: do phe Trục phải hoàn thiện về tổ chức mới có thể phát động tấn công nhưng không kiểm chứng được việc triển khai những vũ khí công phá và các binh đoàn đột kích đã sẵn sàng hành động.
Phần lớn quân đội Liên Xô ở châu Âu đóng tại những vùng đất trước đây thuộc Ba Lan, nơi địa hình ít hiểm trở, không thuận lợi cho việc phòng thủ, điều này khiến cho quân Liên Xô nhanh chóng bị tiêu diệt chỉ trong mấy tuần lễ đầu tiên. Thêm vào đó, Stalin còn buộc Semyon TimoshenkoGeorgy Zhukov ra lệnh cho Hồng quân Xô Viết không được chủ động đáp trả các hành động tấn công và khiêu khích của Đức (thay vào đó họ phải đi con đường vòng vèo là báo cáo về Moskva, đợi lệnh cấp trên rồi mới phản công, chính việc này đã khiến các lực lượng Liên Xô trở thành miếng mồi ngon cho các đòn tấn công và hợp vây của Đức). Và những sai lầm của bộ máy quan liêu hành chính và những sĩ quan thiếu kinh nghiệm càng làm tình hình thêm tồi tệ.
Những sai lầm chiến thuật của Liên Xô trong vài tuần đầu của cuộc chiến đã đem lại những hậu quả thảm khốc cho Hồng quân Xô Viết. Ban đầu, Hồng quân bị đánh lừa bởi thái độ quá tự tin về khả năng của họ. Thay vì đánh chặn các sư đoàn thiết giáp Đức, các sư đoàn cơ giới của Liên Xô đã bị mai phục và bị tiêu diệt sau khi chịu những trận oanh kích của không quân Đức Luftwaffe. Các xe thiết giáp Liên Xô mà phần lớn trong số đó chỉ thuộc loại xe bọc thép yểm hộ bộ binh, được bảo trì hết sức kém cỏi và được điều khiển bởi những binh sĩ thiếu kinh nghiệm, vì vậy liên tục gặp phải hỏng hóc. Đồng thời việc thiếu hụt các phương tiện thay thế và các đoàn xe vận tải đã làm cho công tác hậu cần bị đổ vỡ. Quyết định không triển khai sớm xe tăng để yểm hộ bộ binh đã để lại hậu quả tai hại. Thiếu hụt xe tăng cũng như các phương tiện cơ giới, Hồng quân không thể tiến hành một cuộc chiến đấu cơ động với lực lượng Phát xít được.
Mệnh lệnh của Stalin cấm Hồng quân rút lui hoặc đầu hàng biến phòng tuyến của Hồng quân thành một chiến tuyến khô cứng và dễ bị quân Đức chọc thủng, cắt đứt các đường tiếp tế và bao vây một khối lớn quân Liên Xô. Hơn 2,4 triệu binh sĩ Hồng quân đã bị bắt tính đến tháng 12/1941, phần lớn họ đã bỏ mạng trước bệnh tật, đói kém và vì sự ngược đãi của quân Đức. Chỉ một thời gian sau đó thì Stalin mới cho phép Hồng quân rút lui], tái tổ chức để hình thành một trận tuyến phòng ngự có chiều sâu hoặc để phản kích.
Mặc dù những mục tiêu của chiến dịch Barbarossa đều không đạt được, những tổn thất khủng khiếp mà quân đội phát xít Đức gây ra cho Liên Xô đã khiến chính quyền Xô Viết thay đổi hẳn cách tuyên truyền. Trước chiến tranh, Hồng quân Liên Xô được tuyên truyền là đội quân rất hùng mạnh, nhưng đến mùa thu năm 1941 phía Liên Xô nói rằng Hồng quân đã trở nên yếu kém, thời gian chuẩn bị cho chiến tranh không đủ và cuộc tấn công của Đức là một đòn bất ngờ.
Viktor Suvorov bày tỏ một ý kiến trong tác phẩm Icebreaker của mình. Những lực lượng lớn hơn và trang bị tốt hơn của Hồng quân - theo Suvorov - vốn đang chuẩn bị tung một đòn tấn công bất ngờ vào phe phát xít, mục tiêu là nguồn dự trữ dầu lửa của quân phát xít ở Romania. Suvorov cho rằng ngày 6 tháng 7 năm 1941 – hai tuần trễ hơn ngày bắt đầu chiến dịch Barbarossa – sẽ là ngày bắt đầu chiến dịch tấn công của Liên Xô (mang mật danh "bão tố").Nhà sử học Nga Boris Sokolov, sau khi nghiên cứu các bản kế hoạch của Liên Xô trước chiến tranh, cũng kết luận là sau cuộc tấn công của quân Đức ngày 22 tháng 6, Hồng quân thực hiện những đợt phản công dựa theo sườn của các kế hoạch tấn công đã soạn thảo trước đó và những kế hoạch phòng ngự của Hồng quân sau đó, in view of the absence of pre-war defensive plans, chỉ là những biện pháp ứng phó; vì vậy những thất bại ban đầu của Hồng quân rất khủng khiếp.
Thêm vào đó, việc Liên Xô xuất khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô cho Đức theo những thỏa thuận kinh tế giữa hai quốc gia lúc đó đã đóng góp một phần rất quan trọng vào những chiến thắng ban đầu của Đức trong chiến dịch Barbarossa. Nếu không nhờ việc này, một số nguyên vật liệu quan trọng của Đức sẽ nhanh chóng cạn sạch trong vòng ba tháng rưỡi đầu của cuộc chiến, đặc biệt lượng lương thực và cao su dự trữ của Đức sẽ nhanh chóng trở về con số không chỉ trong vòng ngày đầu tiên của cuộc chiến:
Nếu Đức không nhập khẩu những nguyên/nhiên liệu chính trên từ Liên Xô, họ khó có thể tấn công Liên Xô, chứ chưa nói đến một cuộc tấn công có cường độ tiêu thụ cao hơn nguồn cung cấp và khó có thể nói đến thắng lợi của cuộc tấn công ấy. let alone come close to victory, even with more intense rationing.

Những sai lầm của Đức
Mục tiêu cuối cùng của Chiến dịch Barbarossa vẫn chưa được hoàn thành. Mặc dù có những thành công ban đầu rất ấn tượng của quân đội Đức Quốc xã nhưng nỗ lực để đánh bại hoàn toàn Liên Xô trong một chiến dịch vẫn cứ thất bại. Nguyên nhân chính có thể được quy cho việc đánh giá thấp thực lực của Quân đội Liên Xô. Mặc dù thực tế cho thấy rằng trước khi chiến tranh tổng số và thành phần của Hồng quân đã được nước Đức xác định đúng và đầy đủ nhưng thiếu sót lớn nhất của cơ quan tình báo quân đội (Abwehr) là đánh giá không đúng quy mô lực lượng thiết giáp của Liên Xô.
Một tính toán sai lầm nghiêm trọng khác của nước Đức Quốc xã là đã đánh giá thấp khả năng động viên lực lượng quân sự của Liên Xô. Bởi trong tháng thứ ba của chiến tranh, người Đức dự kiến Hồng quân sẽ không thể tổ chức được quá 40 sư đoàn mới. Trong khi đó, Ban lãnh đạo của Liên Xô từ đầu mùa hè đã có thể huy động tổng cộng 324 sư đoàn (trong đó có 222 sư đoàn là quân thường trực từ trước). Sai lầm đó xuất phát từ sự thiếu chính xác và nhầm lẫn trong các tin tức thu được từ hoạt động của tình báo Đức. Bộ Tổng tham mưu của Đức cũng đã tính toán và kết luận rằng các lực lượng hiện có là không đủ.
Đặc biệt, tình hình vẫn khó khăn thêm khi chiến dịch mở rộng về phía Đông, quân đội Đức gặp phải các tuyến phòng thủ hình bậc thang. Đã có thể thấy rằng với sự phát triển thành công nhanh chóng của các hoạt động chiến dịch giống như một dòng sông ngày càng mở rộng về phía đông nên các lực lượng của Đức sẽ ngày càng giảm bớt mật độ và áp lực, sau khi đã giáng cho người Nga những đòn quyết định trên tuyến phòng thủ thứ nhất. Kiev-Minsk-hồ Chuskoiye.. Trong khi đó, Hồng quân đã bố trí trên những tuyến sông Tây Dvina và Dnepr một tuyến phòng thư bậc thang thứ hai để đón chặn Quân đội Đức Quốc xã. Đằng sau nó là bậc thang phòng thủ chiến lược thứ ba. Một bước cản trở quan trọng đối với kế hoạch "Barbarossa" là Trận Smolensk, trong đó quân đội Xô Viết, cho dù bị thua thiệt nặng, nhưng vẫn chặn đứng được bước tiến của đối phương sang phía đông.
Ngoài ra, do thực tế là các Cụm tập đoàn quân bị hút vào các hướng khác nhau tại Leningrad, MoskvaKiev nên khó có thể duy trì sự phối hợp giữa chúng. Các chỉ huy cao cấp của Quân đội Đức Quốc xã đã phải tiến hành những hoạt động giới hạn để bảo vệ các cạnh sườn của cụm quân xung kich trọng tâm. Những hoạt động, mặc dù thành công nhưng đã dẫn đến việc mất thời gian và lãng phí nguồn lực cơ động của quân đội.
Cũng trong tháng 8 đã xuất hiện một câu hỏi về mục tiêu cần ưu tiên đánh chiếm: Leningrad, Moskva hay Rostov-on-Don. Việc chỉ đạo chiến lược tấn công đã tạo ra một sự "khủng hoảng về mệnh lệnh" trong cơ quan chỉ huy tối cao của Quân đội Đức Quốc xã. Cụm tập đoàn quân Bắc đã không chiếm được Leningrad. Cụm tập đoàn quân Nam đã không bảo vệ được sườn trái của họ (tập đoàn quân 6, 17 và tập đoàn quân xe tăng 1) và phải hủy bỏ kế hoạch đánh chiếm Kiev trong hành tiến. Đối phương của họ trên cánh phải của mặt trận Ukraina đã tổ chức phòng ngự theo đúng dự kiến trên tuyến Dniev và đã trụ lại được trên hướng Tây Nam và Nam của mặt trận. Và sau đó thì việc dồn các lực lượng chính cho Tập đoàn quân Trung tâm đánh chiếm Moskva đã để lỡ thời cơ và các sáng kiến có tính chiến lược. Và trong mùa thu năm 1941, các cấp chỉ huy quân đội Đức đã cố gắng tìm kiếm một chiến thắng trong Trận Moskva, 1941 với chiến dịch "Cơn bão lớn" để cứu vãn sự phá sản của kế hoạch Barbarossa. Chiến cục năm 1941 đã kết thúc với sự thất bại của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực trung tâm mặt trận ngay phía trước Moskva, ở Tikhvin trên sườn phía Bắc và ở Rostov trên sườn phía Nam của mặt trận.

Thất bại của Đức còn có thể do các yếu tố sau:
1. Do quá nóng vội với chiến thắng, Adolf Hitler và bộ chỉ huy Đức quyết định tăng thêm số xe tăng cho cánh cánh quân chủ lực của Fedor von Bock từ 2 cánh Bắc, Nam nhằm làm tăng tốc độ tấn công của cánh quân chủ lực. Nhưng chính điều đó dẫn đến thất bại. Do chờ số xe tăng chuyển tới làm cho tốc độ hành quân của cụm này chậm tới 8 tuần. Và Liên Xô đã tận dụng khoảng thời gian quý giá đó để tập hợp lực lượng cho một cuộc chiến tranh trường kỳ.
2. Bộ chỉ huy Đức đã không tính đến mùa đông khắc nghiệt của nước Nga, binh lính Đức thiếu quần áo ấm, mắc một số bệnh do khí hậu lạnh, khí tài quân sự xuống cấp cũng do khí hậu, và mùa đông năm 1941 cũng là mùa đông khắc nghiệt nhất tại Nga kể từ 50 năm trở lại, nhiệt độ có khi xuống tới -50°C. Trước kia cũng có một đội quân hùng mạnh đã từng bại trận trước mùa đông của nước Nga, đó chính là đội quân của Hoàng đế Napoléon.
3. Sự đánh giá thấp của Hitler về tiềm lực quân sự cũng như nhân tố con người của Liên Xô. Và còn rất nhiều các sai lầm khác về quân sự của Đức cũng bắt nguồn từ sự coi thường này.
(Wikiperdia)

Trận chiến Tết mậu Thân 1968

(Phần 1)
Các nhà quân sử kim cổ Đông Tây đều ghi nhận đặc tính của binh pháp là quỷ trá kỳ xảo, tức là chiến pháp bao hàm ý nghĩa quyền mưu, chủ trương dùng tất cả mọi thủ đoạn để đi tới chiến thắng. Theo trên, người ta không thấy làm lạ nếu đôi bên giao tranh có những lối “công kỳ vô bị xuất kỳ bất ý” để bên này khai thác những sơ hở về một phương diện nào của bên kia. Liên hệ ít nhiều đến nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh này mà đã được nhắc đến trong thiên Quân tranh của Tôn Tử, Lý Tế Xuyên trong sách “Việt điện u linh tập” cũng đưa ra nguyên tắc: Tọa đãi địch chí bất như tiên phát dĩ ách kỳ phong (ngồi chờ giặc đến không bằng đem quân đánh trước để chận mũi nhọn của địch).

Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và công cụ của họ là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) đã xuất toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào những ngày đầu Tết Mậu Thân trong năm 1968 trên khắp lãnh thổ Miền Nam khi họ đột ngột không giữ lời đề nghị ngưng chiến do chính họ đưa ra. Cộng Sản Bắc Việt cũng đã không nghĩ gì đến 3 ngày Tết Nguyên Đán, ngày truyền thống của dân tộc, những ngày đầm ấm nhất của xứ sở mỗi năm, hay sự yên vui của đồng bào để xum họp và cúng bái tổ tiên, một tập tục thiêng liêng từ ngàn xưa. Tuy mưu mô đã khéo, thuật xảo sắp đã hay, tiếng súng của Cộng Sản chỉ tạo được lợi thế bất ngờ trong vỏn vẹn ít tiếng đồng hồ ở thủ đô Saigon và một số thị trấn của Việt Nam Cộng Hòa. Tính chung, Cộng Sản đã thảm bại vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phản ứng rất mau lẹ. Và ngược lại điều tai hại cho họ là đã đụng đầu với sự lạnh nhạt của đồng bào Miền Nam khắp nơi.
Kết quả của hai đợt tấn công đại quy mô với những cố gắng to lớn, từ đầu tháng Giêng đến cuối tháng 5 năm 1968 trên khắp chiến trường từ Quảng Trị tới Cà Mau là Việt Cộng (VC) đã bị đẩy vào chỗ chết ngót 60,000 cán binh, bị cầm tù 10,000, ra đầu hàng ngót 6,000 và mất trên 17,000 vũ khí. Trong khi đó, số tổn thất của VNCH về mọi thứ không tới 1 phần 10 những con số của Việt Cộng.
Trong cuộc “tổng nổi dậy” năm 1968 này, Cộng Sản đã phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và “vô sản hóa” 70,000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chưa từng thấy trong lịch sử loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa bãi vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng. Cộng Sản dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện gì dù có tàn ác nhất nếu để đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ.
Trận Tổng Công Kích Đợt 1 của Việt Cộng đã xảy ra trong những ngày đầu năm Mậu Thân 1968. Để che dấu âm mưu này và để đánh lạc hướng, chiều ngày 20 tháng 1 năm 1968 nghĩa là trước cuộc tổng tấn công 10 ngày, sau những loạt trọng pháo mở màn, bộ đội Bắc Việt đã tấn công mạnh mẽ vào Khe Sanh.
Khe Sanh là một căn cứ chiến lược chặn ngang đường xâm nhập của quân Cộng Sản Bắc Việt vào Vùng I Chiến Thuật của VNCH. Căn cứ này nằm ở ngã ba biên giới Bắc Việt, Lào, và Nam Việt Nam, cách thượng lưu sông Bến Hải không xa và cách Cồn Tiên, nơi xảy ra trận đánh lớn vào giữa năm 1967 vào khoảng 30 km. Căn cứ Khe Sanh nằm trong một lòng chảo chung quanh núi cao vây bọc dài 2 km ngang 1 km. Nơi này có khoảng 6,000 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ trú đóng. Trong căn cứ có một phi trường làm đường liên lạc tiếp tế và vài tiền đồn quanh vùng là các ngọn đồi 881, 861, 558, và 950. Ở xa hơn về phía đông có căn cứ Carrol. Và cách đó không xa có tiền đồn là Làng Vei do một tiểu đoàn Dân Sự Chiến Đấu với sự giúp đỡ của cố vấn Hoa Kỳ trấn giữ.
Cuộc tấn công mở màn vào Khe Sanh đã khiến ngay từ lúc đầu khiến 20 binh sĩ TQLC Hoa Kỳ tử thương và 109 bị thương. Thoạt đầu quân Bắc Việt oanh kích dữ dội bằng trọng pháo và hỏa tiễn vào trại TQLC Hoa Kỳ tại căn cứ Carrol. Sau đó bộ đội Cộng Sản tấn công hai ngọn đồi 881 và 861. Các đơn vị của Trung Đoàn 26/3 (đọc là “Trung Đoàn 26 thuộc Sư Đoàn 3″) TQLC Hoa Kỳ đã chiến đấu dữ dội với các đơn vị thuộc sư đoàn 325 CSBV xuất hiện bao vây vùng thung lũng Khe Sanh. Dường như quân chính quy Bắc Việt đã dồn chừng 3 sư đoàn ở vùng phi quân sự và biên giới Lào để gián tiếp yểm trợ cho chiến trường Khe Sanh. Trước tình hình này, lệnh hưu chiến trong dịp Tết Nguyên Đán Mậu Thân trước định 48 giờ được lịnh rút xuống còn 36 tiếng, nghĩa là lệnh hưu chiến chỉ còn giá trị từ 18 giờ ngày 29 tháng 1/1968 đến 06 giờ ngày 31 tháng 1/1968.
Biện pháp phòng thủ hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị của miền Nam Việt Nam được đặt ra và ước lượng rằng quân số Việt-Mỹ lên đến 50,000 người để phòng ngừa một cuộc đánh úp vào hai tỉnh này. Sư Đoàn Nhảy Dù của VNCH được lệnh tăng cường vùng hỏa tuyến với quân số một chiến đoàn. Một số các đơn vị chủ lực Hoa Kỳ như Sư Đoàn 1 Không Vận cũng được đưa ra Vùng 1 Chiến Thuật để giúp VNCH phòng chống lại sự xâm nhập của CSBV.
Nhưng trước Tết, Sư Đoàn Nhảy Dù mới gởi ra vùng hỏa tuyến chỉ được các Tiểu Đoàn 2 và 9. Mãi tới ngày mồng 2 Tết, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 với Tiểu Đoàn 7 mới được không vận ra Huế. Sư Đoàn 1 Không Vận cũng từ An Khê kịp ra đóng ở một khu vực cách xa thành phố Huế. Các lực lượng này chỉ là những lực lượng trừ bị cho chiến trường Khe Sanh nên chỉ nằm đợi tại chỗ, không tham gia vào những hoạt động khác.
Các chiến lược và chiến thuật gia cho rằng Việt Cộng chỉ có khả năng mở những trận quy mô dựa vào những căn cứ xuất phát tại các vùng biên giới nhưng sẽ thất bại. Với những sự phối trí quân lực như trên thì chắc hẳn địch chẳng có thể làm gì nên chuyện theo đà tiến triển của tình hình. Còn tại nội địa các nhà quân sự ước tính rằng địch quân chỉ có khả năng mở những cuộc tấn công ở cấp liên tiểu đoàn nhằm gây tiếng vang. Việt Cộng chỉ có thể đánh trong một thời gian chớp nhoáng nếu họ không muốn bị tiêu diệt. Người ta cảm thấy lạc quan đối với tình hình quân sự chung trên toàn quốc qua các trận đánh đã xảy ra ở Cồn Tiên, Dakto, Lộc Ninh và Phước Quả vào năm 1967 mà chiến thắng cuối cùng đã nghiêng về phía Việt Nam Cộng Hòa cùng các lực lượng đồng minh.
Tuy nhiên, những người am hiểu thời cuộc lại cảm thấy lo ngại. Vấn đề xây dựng nông thôn không tiến triển. Các vùng nông thôn phần lớn nằm trong sự khống chế của Việt Cộng. Các cơ sở hạ tầng của Việt cộng vẫn còn nguyên vẹn và dường như còn phát triển mạnh tới những vùng làng mạc phụ cận và ngoại ô của các thành phố và đô thị, bằng chứng là những vụ ám sát và khủng bố được gia tăng nhằm vào các viên chức xã, ấp, phường, khóm ở các vùng này trong những tháng về cuối năm 1967. Lợi dụng những vụ ám sát đê hèn này thường ít được dư luận chú ý đến, bằng một cách âm thầm và lặng lẽ, Việt Cộng đã len lỏi về đóng quân một cách bí mật ở gần các mục tiêu dân sự và quân sự ở miền Nam Việt Nam.
Một sự an ninh giả tạo đã được diễn ra tạo nên những sự dễ dãi hoạt động và di chuyển cho các phần tử Việt Cộng. Vào những ngày giáp Tết, ngoài một Khe Sanh sôi động, tình hình chung trên toàn quốc hoàn toàn yên tĩnh. Các đơn vị binh sĩ được hưởng phép nghĩ Tết dễ dàng, trực gác theo như thông thường. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc cho dân chúng tùy theo an ninh từng địa phương được phép đốt pháo trong 4 ngày Tết, từ ngày 30 đến hết ngày mồng 3. Nhưng tiếng pháo đã bất chấp luật lệ bắt đầu nổ rải rác trong đô thành Saigon Chợ Lớn từ 20 tháng Chạp nghĩa là trước cả ngày tiễn Ông Táo lên chầu trời. Nghĩa là dân chúng thản nhiên với thời cuộc sửa soạn đón Xuân và vui Xuân.
Ngày Tết đến, người dân thành thị đã đón mừng Xuân Mậu Thân 1968 với tiếng pháo liên hồi. Tết Mậu Thân là Tết nhiều pháo nổ hơn mọi Tết khác rất nhiều. Giới giàu có, giới mại bản đốt những tràng pháo năm bảy thước và đốt rất nhiều. Giới ít tiền cũng tranh hơi cố gắng bỏ tiền đốt một vài tràng pháo đón Xuân lấy hên.
Đột nhiên xen lẫn tiếng pháo mừng Xuân, tiếng súng Việt Cộng bùng nổ. Hậu phương đang thanh bình, trong giây phút biến thành tiền tuyến. Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ long trọng ưng thuận, Việt Cộng đã mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền Nam tự do để đánh vào các lực lượng của quân đội VNCH trong giờ phút uy linh đón mừng Xuân mới.
Đêm 30 Tết, tức ngày 29 tháng 1/1968, Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xã thuộc Vùng 2 Chiến Thuật:
  1. Thị xã Qui Nhơn lúc 4 giờ 10.
  2. Thị xã Kontum lúc 2 giờ 00.
  3. Thị xã Pleiku lúc 4 giờ 40.
  4. Thị xã Darlac lúc 1 giờ 30.
  5. Thị xã Nha Trang lúc 0 giờ 30.
Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng.
Cũng trong đêm này, Việt Cộng đột kích vào Chi Khu Hội An, pháo kích vào thị xã Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước về phía Nam Đà Nẵng khoảng 4 km và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn quốc. Cả 5 thị xã kể trên và Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 đều bị Việt Cộng lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang và Pleiku áp lực Việt Cộng đã được giải tán nhanh chóng. Tổng hành dinh Quân Đoàn 1 cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các lực lượng Việt Cộng tại các thị xã Ban Mê Thuột và Kontum cũng bị đẩy lui ngay. Tuy nhiên, tại hai thị xã này, Việt Cộng đã bám sát và tạo áp lực mạnh quanh vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ tình hình.
Đêm mồng 1 Tết, tức 24 giờ sau các cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao nguyên và miền Trung, Việt Cộng mở các cuộc tấn công vào đô thành Saigon – Chợ Lớn và các tỉnh lỵ miền Nam. Khi xảy ra vụ trận tấn công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đã thông báo ngay cho các địa phương biết để kịp phòng bị. Vào sáng mồng 1 Tết, Đài phát thanh quốc gia Saigon tố cáo Việt Cộng vi phạm trắng trợn việc hưu chiến trong dịp Tết và ban bố bãi bỏ lệnh này.
Dân chúng Miền Nam đang say sưa trong cái Tết dân tộc, nên ít người biết đến vụ vi phạm lịnh hưu chiến của Việt Cộng. Tại các tỉnh nhỏ, nhà cầm quyền đã dễ dàng hơn, trong việc kêu gọi quân nhân nghỉ phép trở lại trại để gia tăng việc phòng thủ. Tại thủ đô Saigon, chiều tối ngày mồng 1, các giới chức quân sự theo dõi tình hình và ban lệnh cho các cơ quan và đơn vị đề phòng. Nhưng lệnh này quá cấp bách khiến việc kêu gọi những quân nhân nghỉ phép không thể nào thi hành được.
Nhưng việc gì đến đã đến. Một cuộc tổng công kích của Việt Cộng trên toàn lãnh thổ VNCH đã quả thật sự xảy ra. Việt Cộng đã đánh vào các đơn vị VNCH trong lúc họ không chuẩn bị, hoặc chỉ vừa mới kịp đề phòng do những trận đánh đầu tiên xảy ra. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt Cộng đã đồng loạt mở các cuộc tấn công và đột kích vào hầu hết các tỉnh lỵ và thị trấn trong thời gian như sau:
Tại Vùng 1 Chiến Thuật
  1. Huế bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ
  2. Quảng Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
  3. Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
  4. Quảng Ngãi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ
Tại Vùng 2 Chiến Thuật
  1. Bình Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3 giờ 25
  2. Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 02 giờ
Tại Vùng 3 Chiến Thuật
  1. Thủ đô Saigon – Chợ Lớn – Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ.
  2. Bình Dương bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04g25
  3. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh bị tấn công lúc 08g30 sáng mồng 2 Tết
  4. Biên Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ
  5. Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 Tế lúc 01 giờ
Tại Vùng 4 Chiến Thuật
  1. Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 03 giờ
  2. Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 03g30
  3. Kiến Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ
  4. Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04 giờ
  5. Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 02g40
  6. Vĩnh Bình bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4g15
  7. Kiến Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 04g15
  8. Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1g25
  9. Gò Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 âm lịch lúc 2g35
  10. Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13 âm lịch, tức ngày 10/2/68
Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đã tấn công vào 28 nơi. Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn ra trong một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc.
Tính ra như vậy đêm 30 Tết, Việt Cộng mở được 5 cuộc tấn công vào các tỉnh Cao Nguyên và miền Trung. Đêm mồng 1 Tết, Việt Cộng mở được 8 cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ và thị xã trong đó có đô thành Saigon – Chợ Lớn – Gia Định.
Với 8 cuộc tấn công này trong đó có 4 thành phố Huế, Quảng Trị, Quảng Tín và Quảng Ngãi thuộc Vùng 1 Chiến Thuật, thành phố Phan Thiết thuộc vùng 2 Chiến thuật và 2 thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Người ta nhận thấy rằng trong 2 ngày liên tiếp tất cả các tỉnh lỵ thộc Vùng 1 Chiến Thuật đều bị đánh. Các tỉnh lỵ thuộc vùng 2 Chiến Thuật cũng bị đánh gần hết. Riêng Vùng 4 Chiến Thuật mới bị chóm đánh vào 2 tỉnh Cần Thơ và Vĩnh Long.
Đêm mồng 3 Tết, Việt Cộng lại đánh vào 8 tỉnh lỵ khác gồm 5 thành phố Kiến Hòa, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình thuộc vùng 4 Chiến Thuật, 2 thành phố Bình Dương, Biên Hòa thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, và thành phố Tuyên Đức thuộc Vùng 2 Chiến Thuật.
Qua ngày mồng 3 Tết, tức ngày 1 tháng 2/1968, hoạt động của Việt Cộng trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Saigon, Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. Còn tại các nơi, các phần tử Việt Cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt.
Ngày mồng 4 Tết, Việt Cộng mở một cuộc tấn công yếu ớt vào thị xã Kiến Tường và một cuộc tấn công khác vào các đơn vị trú phòng tại Long Khánh nhưng đều bị đẩy lui ngay.
Ngày mồng 5 Tết, hoạt động của Việt Cộng tại các vùng Chiến thuật suy giảm rõ rệt. Riêng tại Huế địch vẫn còn chiếm đóng và hoạt động mạnh. Tại thủ đô Siagon, các phần tử Việt Cộng trà trộn trong khu dân cư đang bị thanh toán lần lần.
Ngày mồng 5 và 6 Tết, Việt Cộng còn mở những cuộc tấn công muộn vào tỉnh lỵ Gò Công, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44, nhưng không gây được sự thiệt hại nào đáng kể.
Ngày mồng 8 âm lịch, tức ngày 6 tháng 2 năm 1968, tỉnh Thừa Thiên vẫn được đáng chú ý hơn cả, tiếp đến là đô thành Saigon – Chợ Lớn và Phong Dinh. Tại Phong Dinh trận chiến đã diễn ra trong 2 đợt: đợt đầu kéo dài trên một tuần lễ và đợt thứ 2 vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng 2/1968. Tại các nơi khác, Việt Cộng tiếp tục duy trì các cuộc pháo kích và khuấy rối đặc biệt là Vùng 1 và Vùng 4 Chiến Thuật.
Ngày 7 tháng 2/1968, Việt Cộng lần đầu tiên xử dụng chiến xa xuất phát từ biên giới Lào, vượt quốc lộ 9 tấn công căn cứ Làng Vei gần Khe Sanh khiến trại này bị thất thủ vào lúc 18 giờ 40. Quân đồn trú chỉ còn 72 người rút lui về Khe Sanh, số còn lại 316 người coi như chết và mất tích. Trong khi đó, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Huế đã tái chiếm một phần lớn khu vực hữu ngạn sông Hương. Việt Cộng phải rút ra cố thủ tại vùng ngoại ô.
Sáng ngày 10 tháng 2/1968, Việt Cộng đột nhập thị xã Bạc Liêu đốt trên 1,000 căn nhà của dân chúng. Tại Huế, Việt Cộng còn duy trì áp lực tại vùng Cửa Hữu và khu vực Bắc cầu Bạch Hổ. Các thị xã và thị trấn khác đều được giải tỏa. Tại đô thành Saigon – Chợ Lớn, quân đội VNCH tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven độ. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.
Tình hình Khe Sanh cũng yên tĩnh sau vụ thất thủ Làng Vei.

 (còn nữa)

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Bao giờ người viết chúng ta mới thoát khỏi cái vòng Kim Cô trên đầu ?

Một người cầm bút, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà nghiên cứu...hay nhà gì gì đi nữa thì điều kiện thứ nhất là điều kiện Cần để cho họ làm việc, sáng tạo và cống hiến, phải là tài năng...Điều kiện thứ hai là điều kiện Đủ để họ trở thành những nghệ sĩ, nhà thơ, nhà văn tài năng..., là vốn quí của Quốc Gia. Đó là một bầu trời tự do tư tưởng, với suy nghĩ bay bổng để được viết ra, nói ra được tất cả những điều họ nghĩ, họ muôn, họ mơ ước và nói thay cho người đọc những điều người đọc nghĩ, người đọc muốn và người đọc ước mơ.... Như một cánh chim dũng mãnh cần có một bầu trời tư do bao la bát ngát để tung hoành đôi cánh.

 Đó là là một điều hiển nhiên không có gì phải bàn cãi. Thế nhưng sự thực lịch sử của văn học nghệ thuật của Việt Nam cũng đã chỉ ra một điều cũng hiển nhiên không kém. Khi không có điều kiện thứ hai, thì dù là có tài năng, thì những người cầm bút đó cũng sẽ không thể nào vươn lên đạt tới tầm cao mà họ đã nỗ lực hết mình để đạt đến, nỗ lực hết mình để vươn lên một tầm cao mà họ xứng đáng được hưởng. Nó sẽ giống một con chim bị nhốt trong chuồng, hay con chim chỉ bay bằng một cánh. Không có điều kiện thứ hai này, sẽ làm tàn lụi đi điều kiện thứ nhất, và sẽ chẳng còn gì cả...Những con người tài năng của đất nướcchúng ta sẽ mãi chỉ là những bông hoa đẹp, nhưng là những bông hoa đẹp trong hang tối, chỉ biết khoe sắc với nhau trong lúc đang héo hon tàn lụi dần vì không có bầu trời đầy nắng, gió, ong, bướm...tự do bên ngoài.
Vì sao ? Vì cái gì ? Và vì Ai...
Câu hỏi thì có nhiều những câu trả lời chỉ có một. Có những vòng Kim Cô, hữu hình và vô hình, vòng nọ xen lẫn, chồng chất, kết nối chặt chẽ với nhau như những sợi xích, hay những chùm chìa khóa luôn kêu loảng xoảng trong tay của những tên chúa ngục, những kẻ chủ chăn khôn ngoan và thâm hiểm. 
Bao năm nay, cái vòng Kim Cô này như những bóng ma, hầu như không ai thấy, (còn ai thấy rồi thì đều thực sự trở thành...ma) đã treo lơ lửng trên đầu tất cả chúng ta như những thanh gương Dmocralet, sẵn sàng cắm xuống đầu những kẻ dám mở rộng, hay định mở rộng cái bầu trời sáng tạo bao la không bao giờ có giới hạn của một nền Nghệ Thuật Vị Nghệ Thuật.
Và giờ đây không chỉ còn cái vòng Kim Cô Siết Chặt hay Thanh Kiếm Tàn Bạo giáng xuống, hay đe dọa giáng xuống đầu những con người nghệ sĩ tài năng để cấm đoán họ sáng tạo. Giờ đây còn có cả những Miếng Bả Danh Lợi ve vẩy trước những con người tài năng đó để họ...ngừng sáng tạo. Để họ viết theo chỉ thị, viết theo lệnh, viết theo ý của chủ Cả...Và hình thành một thứ nhà báo Quốc Doanh, nhà văn, nhà thơ Quốc Doanh...
 Ngoài những cái roi thúc cho những con chuột đua chạy nhanh hơn đến đích, là Cái-Bẫy-Cũ-Nhập-Từ-Nước-Ngoài, thì giờ đây còn có thêm cả những miếng bả danh lợi thơm phức dụ chúng chạy nhanh hơn, mạnh hơn và cũng đến cái Đích cũ, cái Bẫy không bao giờ thay đổi đó....
Mai Tú Ân.
ma-tu-an.blogspot.com

Cám ơn cuộc đời mỗi sớm mai thức dậy, lại có một ngày nữa để yêu thương...

Sẽ là những bài viết, những mẩu chuyện đời, chuyện người, chuyện văn chương, thơ ca, nghệ thuật....Những dòng nhật ký hàng ngày, hàng tuần, tháng, năm...
Sẽ là những dòng chữ tràn ngập niềm vui, cũng có một chút nỗi buồn...nhưng trên tất cả là tính nhân văn thấm đẫm, tình yêu người, yêu quê hương xứ sở, yêu văn thơ và yêu sự trong sáng tinh khôi đẹp đẽ của tiếng Việt...
Sẽ là những lời ngợi ca Đất Nước, Dân Tộc...ngợi ca những Con Người của Đất Nước và Dân Tộc này, dù họ là ai, làm gì, đứng ở đâu trong dòng chảy của đất nước Việt Nam yêu quí của chúng ta...
20/04/2014
Mai Tú Ân